21
Từ 1948 đến 1963
Dẫn - Tôi định việt tập Hồi ký nầy đến năm 1947 là năm chạy lên Sài Gòn xây dựng
lại đời mới, và lựa nhan sách là “HƠN NỬA ĐỜI HƯ”. Nhưng từ ngày được giải
phóng, tôi thấy còn không mấy ngày, nhiều lắm là một đôi năm nữa tôi cũng nằm
ngay cán cuốc, nên tôi có ý đổi tựa sách lại là “SUỐT CẢ ĐỜI HƯ”, và định chấm
dứt hồi ký với năm 1974.
Hôm nay tái hồi như con ngựa chạy đã mỏi chân, tôi thấy đời của tôi cũng không
đến nỗi “buôn huyền buồn” và khóc gió thương mây cho lắm lại càng vô bổ nếu
không nói là lẩm cẩm.
Cũng là tiền định và rất toại nguyện, như:
1) Của tổ phụ, ông bà cha mẹ để lại, vốn là con đầu lòng, nhưng nay để lại cho
hai em Quan và Cảnh, hưởng trọn, âu cũng chưa phải là con bất hiếu;
2) Năm 1943, mua được của ông Trần Thanh một sở đất rất là vừa ý, tưởng xây dựng
nơi đây một vuông nhà theo ý tưởng, đất diện tích 5 mẫu 16.00, toạ lạc tại ấp
Hoà Đức làng Hoà Thuận, tổng Nhiêu Khánh, tỉnh Sốc Trăng (tờ đoạn mãi để ngày
2-7-1943, đăng bộ ngày 17-7-1943, quyển Q.78 số 14 và Quyển 36 số 592). Đào
mương đắp liếp tính việc nuôi cá trồng cây móc một ao sâu rộng 30 x 40m. Lấy đất
đổ làm nền cao 30m x 40m rồi năm 1947, bán đổ bán tháo bỏ chạy lên Sài Gòn, ấy
cũng may nền cao nhờ đó ngày nay trở nên nền chùa và thánh thất, và ao nước vẫn
tứ mùa có nước ngọt để cung cấp cho đồng bào ăn và uống, ai nói việc làm không
có âm đức? Có lẽ âm đức ấy, nhờ đó mà trời nhỏ phước cho có sự nghiệp ngày nay;
âu cũng là tiền định.
3) Năm 1952 mua được đất vừa ý và mua được xác nhà lý tưởng, nhưng không đủ tiền
dựng nhà. Khiến đâu nhờ gặp toàn hảo tâm, anh em cho mượn vừa đủ. Cất nhà rồi,
lo việc trang trải nợ nần. Lại một dịp may khác: vay được tiền Sở Kiến ốc. Cuộc
xin vay nầy lại là một bất ngờ lạ: ban đầu liệu cơm gắp mắm, tôi làm đơn xin vay
ba chục ngàn đồng (30.000$00). Nửa tháng sau, viên thơ ký đòi lại, bảo viết đơn
đổi lại xin vay năm chục ngàn (50.000$00) thì đơn sẽ được chấp thuận. Tôi vốn có
tánh bi quan, nghi cho thấy rấp toan ăn hối lộ, nhưng cũng chiều lòng sửa lá đơn
theo ý thầy muốn ngờ đâu nửa tháng sau lãnh được tiền 50.000$00 vốn, trả làm 60
kỳ, mỗi tháng trả 1.186$98 vừa vốn vừa lời trả đến 31-8-1958, dứt nợ. (Chứng chỉ
giải trừ thiệt thọ ký ngày 5-12 năm 1958 của trưởng ty bảo thủ để áp quyền). Tôi
thắc mắc theo hỏi thầy: “Tại sao vay ít ba chục ngàn, không cho; lại cho vay số
nhiều năm chục ngàn?”. Thầy đáp tỉnh bơ: “Thầy không biết làm toán vay 30.000$00
không có biểu thanh toán (barème) vay 50.000 có bài toán làm sẵn, coi theo đó mà
đòi, chớ không chi lạ!” Té ra tại mình xấu bụng nghi oan chớ thầy vẫn thanh
liêm. Mô Phật!
4) Trả xong mấy mối nợ khuẩn bách, nhưng còn nhiều số nợ khác thiết yếu không
thua. Đang cơ bối rối, vô kế khả thi, bỗng đáu mua vé số, trúng được một trăm
ngàn đồng (100.000$) (trúng độc đắc thứ nhì, kỳ sổ ngày 10-11-1956, vé mang số
056.609), nhờ đó, có nước đồng nước sông mới đầy, làm nên sự nghiệp như ai. Ai
dám nói trời không có con mắt?
Thành thử, vợ bỏ, thấy mất phần ăn gia tài của bà Phủ An để lại, nay đền bù, có
hơn. Kết luận tiền của là phù du. Mất đừng buồn, có cũng chẳng nên mừng, cuộc
đời như canh bạc, nói cách khác, như một đại mộng, con người như tay bài, khi ăn
khi thua, phải biết giữ nét mặt đừng thay đổi, mới xứng ba chữ: gan, tỉnh, dằn.
Nếu để tôi kể như vầy hoài, thì buồn chán lắm và biết bao giờ dứt?
Vậy xin tóm tắt các việc xảy ra từ năm 1948 trong các bài riêng biệt như sau:
a) Với ông Năm Lửa ở Cần Thơ, độ nọ có người gởi thơ lên mời hiệp tác “làm từ
điển”, tôi viết giấy trả lời sẵn lòng nhưng xin để cho chạy hiệu và không ra
mặt. Té ra sau đó việc chẳng đi tới đâu kế ông Năm từ trần,
b) Dưới trào ông Bảo Đại, bà bá tước D, đến bảo đưa danh thiếp bà lên Đà Lạt
tiến dẫn. Nhưng không có danh thiếp sẵn, nên ở đâu hoàn đó. Nhớ lại khi cất nhà,
bà có cho mượn số tiền mười lăm ngàn (15.000$00), trả được mười ngàn
(10.000$00), còn thiếu năm ngàn (5.000$00). Năm 1963, yết kiến bà tại Paris, bà
bằng lòng cho luôn căn dặn tuy rằng không đồng một tôn giáo, khi nào hay tin bà
từ trần, xin đốt cho một cặp đèn. Tôi thành tâm van vái Phật Trời, cầu xin ông
và bà D, mạnh khỏe lâu dài, và ngày nói tới còn lâu mới đến. Ơn bà một kiếp
không quên,
c) Trào ông Trần Văn Hữu, ông Hồ Quang Hoài và các ông thủ hiến kế tiếp, không
được như “đầu chim vịt”, không được như hoa sen hay là môn ngứa, nhưng tôi vẫn
là tôi, nhớ lại tuy ăn lộc đó nhưng vẫn không thấm nước. Mặc ai bôn chôn mình
vẫn an ủi tìm cách hành vi đợi thời.
a) CỐ ĐÔ HUẾ VÀO NĂM 1958 VÀ BUỔI GẶP GỠ NGÔ ĐÌNH CẨN
Bài nầy tôi viết ra làm ba đoạn:
1 - Huế: vấn đề ăn uống.
2. Tôi nhớ Huế - chuyến đi năm 1958.
3. - Buổi tiếp xúc với ông cố vấn Ngô Đình Cẩn.
1. Huế: vấn đề ăn uống - Huế với tôi, quả có nhiều duyên nợ ăn và nợ ham mê đồ
sứ cổ. Thuyết tiền định, không biết có nên tin được chăng, nhưng riêng tôi, nếu
được ra viếng xứ Huế trước sau mười bốn lần không tốn tiền chuyên chở, không tốn
tiền phòng vào thuở Huế còn chút ít hương vị cổ, còn phong gấm rủ là, chưa đến
nỗi tan tành xí quách, âu cũng là một diễm phúc lạ. Mỗi lần như vậy, tôi ở chơi
một tuần lễ, ít khi tôi kéo dài quá mươi hôm.
Tôi không bao giờ để mất thì giờ và luôn luôn học hỏi được nhiều điều bổ ích.
Tuy tôi chưa biết Huế đầy đủ bằng nhiều người, nhưng trong thâm tâm vẫn tự hào,
giữa Huế và tôi, mối cảm tình riêng khó diễn ra lời. Một ngày là duyên hai ngày
là nợ, nếu vậy ba bốn liên miên ngày đến không nhớ mà đếm, như vậy mối tình Huế
và tôi vẫn đậm đà biết mấy? Không kể từ năm 1965 đến năm 1967 tôi ra Huế, lúng
túng như gà kẹt sân, quần thảo lân quẩn chung quanh cối xay, đi đi lại lại cũng
chợ Đông Ba, mây con đường phố quá quen thuộc, hoặc viếng Viện bảo tàng không
biết đến lần thứ mấy, hết Hoàng thành nội ngoại, đến xa nhứt là xóm Tây Lộc chọn
lựa mua đồ sứ cổ, chớ hai lần trước kia, một vào năm 1955, một vào năm 1958, lúc
ấy còn tự do và an ninh khá nhiều, khi thì tôi thuê thuyền ngao du tận lăng
Thiên Thọ của vua Gia Long hoặc hái sen hoặc chụp ảnh cả ngày, khi khác tôi
thời: cơm trưa trên bộ ván một, lăng ông Minh Mang, (gớm? Vô lê thật), cơm rồi
kéo nhau xuống bến đò gần đó thời thêm món tráng miệng là món bánh bèo mặn, xong
rồi nhấp chén trà sen ngự trà, hóng gió nghỉ ngơi đến xế mà mấy gặp ai khuấy
rầy? Không như từ những năm 1965-1967, tình hình căng thắng, nói ra xa hơn lăng
Tự Đức đôi chút là đã phập phồng sợ bị bắt cóc, sợ bị hớp hồn, vì vậy những năm
đó, tôi đành chuyển nghề, không dám du ngoạn và an phận làm tên thợ vô danh đi
săn đồ cổ. Nhờ vậy, tôi lục lạo rong chơi gần khắp các xóm thơ mộng gần Thành
Nội, khi thì làm quen các nhà đại gia, khi thì viếng nhà các cựu công thần lớp
trước, thôn Vỹ Dạ, xóm Kim Long, khu Thiên Mụ... Đến chỗ nào, ban đầu tôi bợ ngợ
hít hà liền miệng, lạ mấy lạ tai, chầy ngày bớt thành quen, hạp tình hạp lý cho
nên gần đây khi nghe tin Huế bị nạn năm Mậu Thân, tôi bồi hồi xúc cảm tưởng còn
hơn khi hay tin chính gia đình Ba tôi và em tôi bị nạn Thổ đốt nhà cướp đoạt tài
sản lúc chạy tản cư ở Thạnh Thới An năm 1946. Có thể nói khi Nhựt lật đổ Pháp
thực dân, lúc ấy tôi đã về hưu trí non và vẫn bình thản điềm nhiên đi dự kiến
đám chủ da trắng lên xe ca-mi-ông riu ríu đầu hàng quân đội Nhựt da vàng và mấy
có nghe tiếng súng con súng lớn nào? Đến khi Việt Minh lên nắm chánh quyền, cũng
có lộn xộn một thời gian, nhưng những lúc ấy nào biết giặc giã là gì dẫu bọn Thổ
nổi dậy đốt phá chém giết thì sự tai hại cũng có chừng mực, và cái khí hào tầm
vông vạt nhọn, phảng kép cổ dài đã che lấp những sơ hở buổi giành độc lập. Không
như tai hoạ chiến tranh bắt đầu từ năm Mậu thân (1968), nay nhớ lại mới là tởn
óc.
Đầu năm Mậu thân, ở đâu mà lại không có cảnh bị bắn giết đốt phá? Chính Gia Định
cũng có cảnh nhà cửa tan ra cái bụi, bàn ghế của tiền thập vật cháy ra khói tro,
chỉ vì người cầm quyền ngoan cố, bám theo chánh sách Mỹ và Thiệu chúng nó vãi
tiền ra lại cho đồng bào ta cùng một giống cầm súng bắn lẫn nhau, là như vậy họ
mới có dịp đục nước béo cò, không khác những tên tớ gian tham khi chủ sai đi mua
vịt quay gà quay, giả lựa chọn con nầy nắm kéo con kia, liếm mỡ dính tay cho đã
rồi đem về chủ một con gà một con vịt chỉ còn bộ xương dưới lớp da khô đét. Mỡ
và thịt ai kia đã rút rỉa hết rồi! Nghĩ cũng thẹn cho con nhà văn trói gà không
chặt, lúc thế bọn ấy đang mạnh cũng phải giả dại qua ải, và đợi cho đến ngày hôm
nay chúng đã cút mất, mới dám nói ngay sự thật.
Chính năm 1968, tuy không làm gì nên tội, nhưng tôi đã “đánh trống chiến trong
bụng”, khi hay tin chiến tranh đã lan tràn tới Ngã Năm Bình Hoà, và bót Hàng
Xanh (Ngã tư Xa lộ) bị đột nhập, chỉ vì sợ quân lưu manh theo đóm ăn tàn kiểu
Mỹ, cướp nhà hôi của. Tuy vậy tôi cũng chưa sợ mấy, và trong bụng một phần lại
nghĩ khác, ước mong sớm thấy “đổi đời”, vì đã quá chán chê bọn tham nhũng vơ
vét. Khi hay tin nhờ đọc báo và nghe radio, biết Huế đã thất thủ, trong hơn hai
mươi ngày bị chiếm, nào thấy mất mát của chìm của nổi nào do bên kia lấy, và chỉ
thấy bên nầy thừa dịp vơ vét rồi hô hoảng phi tang. Khi tôi trở ra đó một vài
năm sau, chỉ thấy cung điện di tích cựu triều xác xơ điêu tàn, cho hay thành xưa
điện cũ phải chịu vạ lây, vì bọn thiếu tài vẫn tham quyền cố vị, quyết ngồi lỳ
vơ vét cho đầy túi tham, sống chết mặc bây! Trong khi ấy, đồ sứ cổ trong viện
trong cung, chúng hôi giấu bán ra ngoại quốc rồi còn cả gan phao vu mất mát vì
nạn chiến tranh. Xét ra lúc ấy “nội bất xuất, ngoại bất nhập”, có mấy ai vào
được trong Đại Nội, nếu không có giấy phép hẳn hoi? Và chính bọn gia nô bên
trong mới có bàn tay nham nhúa nhứt. Nga có điện Cẩm Linh, Trung Quốc có cung
điện nhà Thanh ở Bắc Kinh, cả hai nơi nầy vẫn bảo tồn nguyên vẹn. Nước Pháp có
lâu đài như Versailles, Louvre và Fontainebleau là nơi nô nức khách hoàn cầu đến
viếng. Khơme có Đế Thiên, Đế Thích. Chỉ có cố đô Huế ngày nay điêu tàn, chỉ vì ở
một lúc dưới tay bọn giỏi chạy theo Mỹ nhát, ăn hại thì có, bảo tồn bảo thủ thì
không ngơ. Cửa Thường Tứ, cửa Đông Ba, sau năm Mậu Thân, đổ nát như thành quách
Chàm đời trước. Đến khi bày chuyện tu tao tái thiết, lại là một dịp quơ quào
thồn nhét cho đầy túi thau. Chữ vàng “Ngọ Môn”, gân guốc sắc bén và làm bằng
vàng thật, hai đầu rồng của cái ngai vua cũng làm bằng vàng thật, chúng đã tháo
gỡ từ năm nào, cũng không thấy tìm ra thủ phạm. Cửa Đông Sa, nếu kể từ ngoài đi
vô thành nội, nhớ mại thuộc mé hữu, có mấy phiến đá Thanh thật to, cẩn sát trong
vách thành, trơn tru mòn lì như mặt tấm gương giồi, còn nhớ mỗi lần có dịp đi
ngang, dầu gấp cách mấy cũng dừng bước lại rờ rẫm như thăm người bạn. Đã mấy
đời, tay người rờ đá, đá cũng mòn. Tôi đâu phải là người tiên phong làm việc
nầy? Từ đây không có dịp trở ra thành mấy phiến đá Thanh cửa Đông Ba có còn
chăng? Hay trong lúc giận cá chém thớt, đã trầy trụa hay lủng lỗ đi rồi? Mà tiếc
làm sao được, khi thân người buổi chiến tranh, còn chẳng ra gì thay, người xưa
từng nói: “Nguyện tác thái bình cẩu, mạc tác loạn ly nhơn”. Vẫn xưa nay không
đổi. Kỳ đài hùng tráng, Ngọ môn kiên cố, nay ra sao?
Lần đầu tôi ra Huế, chân ướt chân ráo, là năm 1955, ngày 15 tháng ba dương lịch
ra đó, ngày 22 trở về. Tuy thì giờ ít, nhưng tôi thâu thập tài liệu khá nhiều.
Bộ Giáo Dục chỉ cấp cho tôi bảy ngày phép, nhưng nhờ trường Viễn đông Bác cổ cần
dùng tôi giúp chuyên môn và cấp theo tôi anh nhiếp ảnh có thực tài Nguyễn Mạmh
Đan, hai tôi lúc ấy còn sỏi dẻo, đã đi khắp chỗ, viếng khắp nơi, từ trên lăng
các vị vua triều Nguyễn cho đến trong sâu trong Đại Nội, từ cung điện cấm cho
đến Viện bảo tàng, hoa viên tư gia, chùa xưa, phong cảnh đẹp bất cứ chỗ nào tôi
ưng ý là anh Mạnh thâu hình vào máy... Mấy bức ảnh ấy, ngày nay tôi còn giữ và
xem đi xem lại quả là những tài liệu có giá trị đánh dấu một buổi vàng son của
thời Huế đô chưa suy sụp lắm (1955).
Ngày 2-4 dương lịch năm 1958, tôi lại được theo chân phái đoàn viện Đại Học Văn
Khoa Sài Gòn viếng cố đô được một tuần lễ. Các sinh viên, chia ra nam và nữ,
trên hai mươi người đều được phân ra làm nhiều tốp, gởi đi nhiều nơi có chỗ ăn
và ngủ tử tế, chúng tôi, nhóm giáo sư ba người, ông Nguyễn Khắc Hoạch, ông
Nghiêm Thẩm và tôi, được tạm trú trên lầu thư viện đại học (trụ sở cũ ngân hàng
Đông Dương đời Tây). Ra viếng Huế kỳ nầy, mục đích của tôi là cung chiêm lại kỹ
kiến trúc lăng Thiên Thọ (Gia Long) lăng vua Minh Mạng (Hiếu Lăng) và lăng Tự
Đức (Khiêm Lăng). Nếu còn thì giờ, tôi sẽ liệu tìm cách hiểu qua kiến trúc của
hoàng thành. Kỳ dư tôi không tha thiết mấy, nhưng bất ngờ là tôi được tháp tùng
phái đoàn vào chào, cho đủ lễ, ông cố vấn Ngô Đình Cẩn, lúc ấy tuy giữ chức cố
vấn nhưng còn hiền và chưa lộ vẻ hách như sau nầy (buổi tiếp kiến sẽ thuật trong
một bài khác).
Thứ hai 7-4-1958, tôi theo phái đoàn lên xe ca-mi-ông mười bánh đi Đà Nẵng, để
có dịp cho sinh viên miền Nam, các cô và các cậu cử tân khoa, được viếng đèo Hải
Vân, năm hòn Ngũ Hành và Viện bảo tàng tại đó, tên Pháp gọi Musee Parmentter, là
tên của nhà khảo cổ chuyên môn về cổ tích và nghệ thuật Chàm.
Viện nầy xét ra là một nơi duy nhứt liên hoàn cầu, còn tàng trữ được nhiều thạch
bi, cổ vật và di tích Hời của nhiều thế kỷ đời trước, không biết nay có còn đủ
bộ như lúc tôi được thấy năm đó chăng? Và nhà có công gìn giữ nhiều năm là ông
bạn cũ của tôi Nguyễn Xuân Đồng, nay ắt đã về hưu và năm 1975 ông đã chạy về
đâu? Nghĩ ra tội nghiệp cho ông: giữ của cho các vua Chiêm Thành, thì các vua đã
thăng hà từ lâu, giữ gìn cho viện bác cổ thì viện ở xa không gởi tiền về, giữ
cho các trào Diệm và vân vân thì các trào đổ thừa làm tôi cho Pháp thì theo Pháp
mà đòi, rốt cuộc ông Đồng nay chạy đi đâu và sức khỏe ra làm sao? Tôi nhớ ông
lắm, mà biết làm sao bây chừ?
Xế chiều ngày viếng Đà Nẵng, phái đoàn lên máy bay nhà binh trở về an toàn đáp
sân bay Tân Sơn Nhứt, tuy hết ngây ngất vì đứng cả mấy giờ đeo tay trên trần máy
bay và vẫn còn” u mê” (xin đừng nói lái) vì mấy ngày ngồi dưới sạp cây của xe
nhà binh thì phải biết. Tuy vậy không ân hận chút nào vì thu thập được nhiều
sàng khôn.
Nếu có ân hận là thầm tiếc không biết Huế lúc còn vua chúa, nhưng mất cái nầy
được cái kia, nhờ vậy tôi biết bộ mặt Huế khi đã sạch son hết phấn. Viếng cố đô,
vào tận điện vua mà khỏi mặc đại phục, kể cũng là một cái thú hiếm có! Nhưng
viếng chỗ tôn nghiêm mà tự do quá mức độ như mấy kỳ ra Huế từ năm 1965 đến năm
1967, thì thà thủ lễ và còn nhớ chỗ đó đó có ông vua ổng ngồi mà hay hơn và
không thầm tủi con cháu nhà học trò biết đọc sách!
Trong ba năm liên tiếp 1965-1966-1967, tôi được trường Đại học Văn khoa Huế mời
ra đó dạy về “văn chương quốc âm Miền Nam”. Tôi mà sức mấy? Không một cấp bằng,
không một chữ trong bụng, trước học ngoài đường ngoài phố xá. Nôm không thông,
Hán dốt đặc, gặp ông Nguyễn Đạm hỏi tôi vua Tự Đức ngồi câu với thị Bằng ngồi
nơi thuỷ tạ mà nơi gốc cột nào? Vua Tự Đức, cầu con mà muốn có con với bà nào?
Vân vân và vân vân, toàn là những câu tôi không trả lời được, thế mà nhận làm
giảng viên đại học văn khoa Huế, hèn chi người Nam có tiếng là “bán trời không
cần có nhân chứng”. Nhưng tôi đã nhận lời, vì thuyết của tôi là “biết bao nhiêu
nói bấy nhiêu”. Lại nữa đây là một dịp “nhứt cử lưỡng tiện”! Vừa nếm các món
ngon kinh thành Huế, vừa đi săn cổ ngoạn cho phỉ tình. Duy từ năm 1967, là kỳ
chót, một sinh viên khuyên tôi năm sau không nên ra, tôi nghe lời thưa với ông
khoa trưởng cho tôi thôi dạy từ niên khoá 1968, có dè đâu anh sinh viên ấy biết
được cơ trời, tiên tri trúng phóc, vì năm 1968 là năm Mậu Thân, biết chưa? Sự
thật, tại sao tôi không ra Huế từ năm 1968, một phần là trong thâm tâm tôi tức
tối vì sự khám xét phiền phức và sự hách dịch vô lối của nhân viên phi trường
cũng như sự làm khó dễ bộ hành về hành lý và giấy tờ tra xét khi ra sân bay và
khi rời phi trường. Vả chăng cái xách của tôi là toàn đĩa cổ tô xưa, các bác xóc
ra xóc vào mãi thì mẻ sứt hết còn gì?
Ngày nay, ngồi viết hồi ký, còn tiếc vì chưa biết rõ tình hình đất Thần kinh đã
biến chuyển ra sao từ hiến cố Mậu Thân.
Tuy vậy cũng an ủi được là biết Huế buổi còn thanh nhàn, ít nào cũng biết vài cổ
tích còn sót, vài nhân vật cũ còn sanh tiền và nào phong cảnh cổ, cách thờ
phượng, nhân tình ăn ở ra làm sao, chỗ nào làm bánh ngon, chỗ nào nấu ăn khéo.
Cho đến nay, tuy không ra được nữa chớ lòng hằng nhớ những chốn đã trải qua.
Nhưng tuổi đã chẳng chờ ta rồi?
Tôi có một phương pháp riêng, chắc chắn giúp tôi biết nhiều về xứ Huế. Cứ mỗi kỳ
tôi dự định lên đường ra đó, thì trước nhứt lúc còn ở nhà, tôi ra công nghiên
cứu trước, một chỗ nào hữu danh, sau nầy khi ra tới đó, sẽ viếng thăm. Tỷ dụ tôi
tra cứu các sách khảo về du lịch, và bộ sách lót đầu nằm vẫn là bộ Đô thành hiếu
cổ (Bulletin des Amis du Vieux Huế) nói về lăng tẩm, chùa chiền, dinh thự đại
gia như phủ Gia Hưng, phủ Vĩnh Lại, dinh ông Thân Trọng Huề, Tôn Thất Hân,
v.v...). Xong xuôi rồi, khi ra đến nơi, tôi còn hỏi dò lại các thân hữu cố tri,
hoặc nếu cần, sẽ nhờ mấy anh sinh viên thông minh đưa tôi đến chỗ và giãi bày bổ
túc tìm hiểu những vấn đề còn thắc mắc; cụ Trần Tiễn Thành năm xưa đã chết cách
nào và nhà nơi ông ngộ nạn nay ở đâu, thuộc khu phố nào, bây giờ ra sao? Và chỗ
nào đức Duy Tân giả ngồi câu đợi Trần Cao Vân? Bến Ngự là chỗ nào? Và nơi đâu là
chỗ “Ông già Bến Ngự” (cụ Phan Bội Châu) đậu thuyền? Cho đến ngày nay, ngồi viết
bài nầy, tôi còn luyến tiếc một nhà ẩn dật đã gặp tại nhà cụ ấm Tư nơi đường Võ
Tánh và nhớ tiếc không gặp lại để học hỏi thêm. Tiên sinh trước làm việc tại
Quốc sử Quán Huế, cùng với ông Ngô Đình Nhu, dưới quyền ông Phạm Quỳnh. Khi tôi
gặp tiên sinh; đầu đã bạc xoá như thúng bông, và hai ta trong buổi chiều tàn
bóng xế nầy, biết có thuở nào gặp lại? Chu nhân là cụ ấm Tư, có danh là chuyên
trà rất khéo, và trong buổi minh đàm (uống trà nói chuyện) tay ba, tiên sinh
từng hỏi tôi xưa bà Thị Bằng hoạ thi với đức Dực Tôn tại góc nào nơi thuỷ tạ
Khiêm Lăng? Vua Tự Đức cầu cơ cầu tự nơi nào? Và tại sao Ngô Đình Nhu không ưa
nếu không nói là đố kỵ Phạm Quỳnh? Toàn là những câu hóc búa, tôi không trả lời
được. Tự thấy mình quá dốt và mặc dầu làm giảng viên Đại Học Văn Khoa, tôi bỏ
mặc cảm và hạ mình xin thọ giáo. Người ta học trong trường, tôi học ngoài hè
ngoài phố là vậy. Tiên sinh có hẹn sẽ vào Sài Gòn thăm con và sẽ gặp lại nhau,
nhưng tôi đã biết trước làm gì có cuộc tao phùng Bá Nha, Tử Kỳ. Không gần được
người hiền để học thêm những gì hiểu biết sâu xa, tôi đành cam tâm làm con hạ
thú vui với vấn đề bao tử. Bởi thế nay tôi rất tiếc quán mụ bán bún bò góc đường
Chi Lăng, Nguyễn Du, nghe nói mụ đã xuống bán dưới âm phủ từ Mậu thân, và biết
chừng nào lại ăn thứ bún bò của mụ? Cái mụ gì buôn bán lạ kỳ: ăn một tô, chưa
thấm tháp vào đâu, vì tô có một chút nhéo. Kêu thêm tô thứ nhì, ăn vừa lưng lửng
biết mùi kêu tiếp tô thứ ba, mụ trả lời cộc lốc: “Hết rồi!”. Mụ ơi, mụ chết cũng
vì vậy. Tức quá mà! Một người nướng thịt có biệt tài dường thế, chết thật uổng.
Đó là ý nghĩ của tôi, một người trọn đời không làm chánh trị, và để thì giờ
nghiên cứu vấn đề ẩm thực vui cái dạ dày no bụng hơn! Tóm lại về phương diện
“nhứt ẩm nhứt trác” tôi không chịu để thua ai và mỗi lần ra Huế, tôi đều có thảo
thực đơn trước còn kỹ hơn nhà tướng vẽ hoạ đồ xuất chinh, hay nói trong nghề
nghiệp, kỹ hơn tôi dọn bài cho sinh viên đại học. Khi ở Huế một tuần nhựt thì
tôi dọn chương trình đủ một tuần; không kể những ngày gió bắt mưa cầm, mà ai lại
không biết, một lần Huế mưa là mưa thúi đất, một cơn mưa hai ba ngày chưa dứt,
tuy Huế không phải là quê hương của ả Chức, tội nghiệp nhứt là đám học trò con
nhà xa đi học chợ, phải có sẵn một bộ khô để thay khi vào lớp, nhưng Huế đã có
một thứ áo tơi chằm bằng lá khô, còn linh nghiệm hơn áo đi mưa của bọn Mèo
nhiều. Những ngày mưa như vậy, tôi chỉ có nước ở lại trường. Ăn qua loa cho xong
bữa, khi nem bánh mì, khi trở bữa mượn người nhà anh lao công chế biến độc vị
“thịt nướng”, không thì gà luộc xé phay. Con gà Huế, nhỏ con, nhưng thơm ngon lạ
lùng, hơn xa con gà Nam Vang, thịt nhớt, và hơn xa thật xa, con gà Mỹ, tuy lớn
con mà thịt bủn rề như gà mắc toi, duy có rô-ti là ăn đỡ đỡ. Khi tôi tìm được
quán của mụ bếp do ông viện trường linh mục họ Cao chạy vô Sài Gòn để lại, thì
đà rất trễ, tôi không nếm được đủ món của tay ngự thiện phái nữ Huế đô nầy.
Nhưng làm gì thì làm, không làm chánh trị nhưng tôi đồng tình với nhà ái quốc
Tôn Trung Sơn, sự ăn sự uống là một “tối đại vấn đề” quan trọng còn hơn chầu xưa
chọn ngày tế cờ xuất binh. Cứ mỗi lần ra đó, buổi đầu tiên là tôi rảo một vòng
chợ rồi về phòng tả thực đơn, cân nhắc đắn đo để tránh sự bất ngờ và sự sai lệch
chương trình hoạch định.
Có người đã trách tôi không thấy nhắc đến chè ngọt. Sự thật, tôi không thích
ngọt các món như kem, đậu hủ và chè sen, đều thua ở Sài Gòn nên tôi không kể. Có
thứ chè nấu với đậu ngự, tôi nhận là ngon, nhưng ít khi gặp. Tôi ít thức khuya
và không tận tuỵ dầm mưa chịu cảm vì một chén chè bán dạo. Sở dĩ ra Huế tôi chú
trọng nhiều về vấn đề ăn uống vì muốn thưởng thức cái ngon của xứ lạ Chợ Đông Ba
bán nem nướng rất ngon, nem vắt tay chớ không vo tròn như ở Sài Gòn. Nước tương
chấm thì không chỗ chê duy khổ một nỗi đang ăn ngon bỗng anh cùi thò tay vào
khiến cụt hứng nuốt không vô.
Nạp tiền “mãi lộ” xong, lẩn bẩn giây lát lại thấy bàn tay không ngón chìa nữa.
Tôi có tánh ham ca nhạc nhưng nhạc Huế chỉ nghe được một lần nhà cụ ấm Tư với
nàng Bô tê từng hầu đức Hoằng Tông, vừa đàn vừa ca bản Huyền Trân ai oán. Muốn
nghe dưới đò, ngặt sợ xúc phạm thuần phong mỹ tục, và gái xuống đò không sạch.
Với mớ tuổi trên lục tuần, từ rày phải áp dụng lời dạy cổ nhân: “Dạ ngoạ bất
phúc thủ” (đêm nằm chẳng úp đầu) và thú vui còn phải tránh “Vãn phạn giảm số
khẩu” (cơm chiều bớt và miếng), sợ e trúng thực. Tuy nói vậy chớ tôi không để
mất hai bữa bê thui và ca-ri dê là hai món khá đặc biệt của quán đường Phan Bội
Châu gần một rạp hát bội lèo hèo. Quán chỉ bán mỗi tuần hai buổi bất di bất
dịch: chiều thứ tư nấu ca-ri thịt dê và chiều thứ bảy, trở món bê thui, làm một
tuần chỉ hai buổi mà cũng đủ làm giàu. Nếu so sánh với món ăn Sài Gòn, nội bò
bảy món Chi Lăng cũng hơn xa. Nhưng ra ngoài lấy gì mà kén? Đại khái và ưng ý
nhứt có món cháo lòng đường Phan Bội Châu, nước trong mà ngọt, vừa nhẹ tiêu vừa
ngon mát, và khoái khẩu không kém là món cháo gà xôi gà đường Chi Lăng phố Già
Hội, rất khổ và rất hạp vệ sinh. Khi nào tỳ vị tốt và lá gan không chứng nhõng
nhẽo, thì nếm thử tô tiết canh Phan Bội Châu hoặc ăn bánh khoái Võ Tánh cầu Đông
Ba đi xuống. Tôi không ghi trong chương trình những gì không thích như cơm Tây ở
Câu Lạc Bộ mé sông Hương, gió mát thật nhưng đắt tiền và lạt phèo, quán Thượng
Hải đường Phan Bội Châu bán cơm Tàu, dở như “Hạch” mà mắc không chỗ chê, và có
một quán Tàu ở mút đường Chi Lăng, cảnh thật xinh mà nấu ăn thua Chợ Lớn xa quá,
duy lúc tính tiền thì hơn Chợ Lớn rất nhiều. Ra Huế là để nếm của ngon vật lạ
của người đất Huế, chớ thứ hột vịt lộn úp mề và cơm ăn Hối thèn (cơm Tàu hạng
sang) thì thà để dành tiền về Sài Gòn, Chợ Lớn, ăn vừa khoái khẩu vừa khỏi bị
cắt cổ. Một món lạ khác là ăn “cơm hến ngoài cồn”, nghe lạ tai, nhưng khi đưa
đến chỗ tôi “ăn cơm ngó” chớ không thò đũa vô được, vì bình sanh tôi sợ mắm, lại
nữa tôi đau chứng nước tiểu có lòng trắng trứng (albumìnurie). Năm khi mười hoạ,
em tôi ở Sốc Trăng gởi mắm ngon lên, thì tôi ăn với điều kiện: ăn mắm phải ăn
mình trần vận chăn, ăn trong xó bếp hoặc với vợ con, hoặc ăn không cho ai ngó
miệng Ăn mắm không bao giờ nên mặc đồ lớn, như những buổi ra Huế là xứ có nhiều
khăn đóng áo dài.
Đất Thần kinh, những món đặc biệt tôi thích là tỷ như trái vả, tròn tựa trái
sung, nhưng lớn hơn nhiều, và chỉ mọc trên núi Huế, không thấy ai trồng hay là
nó không hạ thuỷ thổ miền Nam. Trái vả xanh tươi, hái từ bụng núi đem về xắt
mỏng. ăn kèm với rau ghém, khi ăn bánh khoái, khi kẹp thịt nướng, thì không gì
thay thế ngon bì. Trái chuối chát trong Nam, dẫu là chuối non chuối hột, mùi lai
cũng kém xa. Trái vả, chát vừa vừa và giòn rụm, có đặc tánh làm cho bao nhiêu
chất dầu chất mo trong bữa ăn đều quánh lại và trôi mất, khiến ăn được thêm
nhiều không ngán. Không thế nào trái chuối chát non hay miếng mít luộc đất Sài
Gòn mà ngon hơn trái vả đất Huế. Và xin hỏi, trái nầy là của ta hay là sản phẩm
của người Chàm? Tôi muốn biết đặng trả món nào cho người món ấy. Của Xê-da trả
lại cho Xê-da (Rendez à César ce qui appartienl à César). Cho đến một thứ cải
con nhổ ăn sống ngoài nớ, cũng khác mùi vị với thứ cải con đất Gia Định, Đồng
Nai. Và tại sao cũng thì rau răm, là thứ rau cay cay mọc lẹt đẹt dưới đất thấp,
mà rau mọc ở Huế thì thơm ngon lạ lùng, còn rau răm Sài Gòn, vẫn xanh lá tươi
tốt không thua, nhưng mùi vị rất kém, không bì rau răm Huế chút nào. Có nhiều
thứ rau nữa, ở Sài Gòn đều có mọc đủ giống, nhưng rau Huế cắn vào thơm phức
khiến lần đầu ra đất Thần kinh, chuyến về tôi mang trọn một bao lớn đem về cho
bà con thưởng thức món lạ đất nhà vua, nhưng một lần sau, nhơn đi ăn với một chị
giáo sư người Pháp (chị M. Piat), tôi khen rau thơm ngọt, chị pha lửng một câu
nữa khôi hài nửa đúng sự thật, làm tôi cụt hứng không mang rau về nữa. Tôi thì
đinh ninh nhờ phong thổ đặc biệt, lạnh nhiều mát mẻ nên rau Huế thơm ngon khó
sánh, nhưng chị đầm nầy cãi lại, nói một câu sét đánh: “Ils ne les lavent
jamais!”. Tôi xin để nguyên văn và miễn dịch câu nầy ra tiếng Việt, vì không
muốn vì một câu nói chơi mà làm mất niềm hoà khí gây hiểu lầm lớn chuyện giữa
Việt và Pháp, nhưng suy nghĩ lại, thà dịch rồi bỏ qua: “Chúng nó không bao giờ
rửa”. Người đồng bào Huế đô phải nhìn nhận tại sao quán bán bê thui, ngon thì có
ngon thật, nhưng bầy hầy thiếu vệ sinh quá, dường như coi rẻ khách hàng: quán
thì tum hủm chật hẹp, dọn vài ba cái bàn mà không cái nào sạch, ly chén không
bao giờ cho vào nước e nó mòn đi chăng Mỗi lần dọn đũa, thì trao cho khách ba
miếng giấy súc cắt vuông để khách tự lau đũa lấy, nói thật, tại vì bụng đói mà
có tánh ham nếm món lạ nên mới lết đầu vào, chớ nhớ lại chờm gớm quá! Bưng tô
ca-ri, anh dọn bàn nhúng trọn ngón tay cái luôn và móng lay viền lằn đen thui,
miệng lại thập thò điếu thuốc Cẩm Lệ, ý chừng muốn khách thấy ca-ri có ngón tay
nhúng là hiểu “ăn đi, vừa ăn, không nóng không phỏng miệng đâu!”.
Huế là xứ lạnh, dễ chịu. Đàn bà lớn tuổi, phần nhiều đều hút thuốc. Các cô quý
phái ngồi xe nhà, chạy trên cầu Trường Tiền, cô nào như cô nấy thì thòm lo le
điếu thuốc vấn trên môi. Các chị bán bún bò, vai gánh nặng trĩu, miệng cũng lấp
la lấp ló nửa điếu thuốc tàn. Tôi hiểu vì lạnh điếu thuốc có mãnh lực làm cho ấm
lòng, hay là mỗi cô mỗi bà đều có tâm sự buồn lòng nên cậy điếu thuốc giải sầu?
Nhưng tôi là dân Miền Nam, chưa quen mất thấy người đẹp hút thuốc. Có một việc
tôi công nhận là câu “ớt nào là ớt chẳng cay”, có lẽ câu nầy áp dụng xứ Huế thì
chưa được đúng. Chính tại quán cơm Âm Phủ, bữa ăn thịt nướng rau sống, tôi nhai
ngon lành ba trái ớt sừng trâu mà không thấy le lưỡi hít hà. Ớt xanh, rau sống,
tỏi tươi, nem chua, trẻ, ngồi ăn mà nhớ đàn bà xứ nầy; ngay xưa làm cung phi,
làm hầu thiếp nhà quan, vợ bé ông thương, ông hầu tước, đã quá quen cảnh ấy nên
không ghen hay không dám ghen, thậm chí trái ớt xanh Huế cũng khác, không như ớt
ở đâu đâu nhứt là nhớ ớt nhà, “ớt cay xé miệng mới là ớt ngon?”.
Đường Phan Bội Châu, núp sát hào nước bờ thành, có quán cháo lòng, hiệu đề hai
chữ, nhớ chữ đầu là “Vĩnh”, chữ sau mại mại nhớ là “Lợi”, quán hiệu Vĩnh Lợi
phải không? Đầu xuân Mậu Thân nghe dường như xóm nầy bom đạn nổ nhiều hơn chỗ
khác và nơi thảm cỏ xanh trước quán có nhiều mồ mả mới vùi. Cái quán nầy hiện có
còn chăng, hay đất Huế đã mất đi một nơi quan khách? Huế đô có rất nhiều quán
bán cháo lòng, nhưng theo tôi, tôi chấm quán nầy là ngon nhứt. Đất Thần kinh,
cháo lòng dọn với thịt luộc; trong tô cháo ở Huế, vẫn thiếu miếng dồi nướng đặc
biệt của vùng Sài Gòn và của bợm nhậu, dồi dồn huyết tươi và sả ớt bằm, khi
nướng mùi thơm bay nhột mũi. Quán Vĩnh Lợi dọn đĩa lòng ra không chỗ chê, nào
bao tử, nào phèo non: nào tim gan giòn ngọt, nào dồi trường màu trắng buốt như
bông bưởi, món thịt luộc thái mỏng cũng ngon ngọt lạ thường nhưng không một
miếng dồi (hay là cháo ngon chấp dồi?). Ngặt chủ quán rất kén khách, dầu có tiền
nhiều muốn vô đây phá mồi cũng không được với lão, vì thường ngày lão hay để
dành mớ nhắm cho bợm quen; người khách lạ, đang ăn ngon miệng, xin rối thêm,
lòng còn trong rổ mà lão dám đáp tỉnh bơ “đã hết”! Chẳng qua lão để dành hoặc
cho khách quen chưa đến, hoặc lão nhớ còn một nồi cháo đầy, bán hết đồ lòng đồ
bổi, lát nữa lấy gì bán kèm với cháo? Ăn thịt luộc ở Huế, khiến tôi bất nhớ món
thịt luộc trong Nam. Tôi định con heo xứ Huế là giống heo nhỏ con, heo bản xứ,
không bao giờ lai giống với heo các nước khác. Heo Huế tuy nhỏ con nhưng thịt
săn và mềm, thớ mịn, khi luộc phay chấm với nước mắm Hòn thì ngon tuyệt, ngon
không chỗ nói. Ở Sài Gòn và những nơi khác quen dùng thịt heo ướp lạnh, từ ngoại
quốc đưa vào, còn như heo nuôi thì cũng là giống heo to con ngoại quốc nữa, hoặc
heo gây giống ở Thuộc Nhiêu (Mỹ Tho), loại heo nầy thịt cứng sớ to chỉ dùng làm
ram-bông (jambon) theo Tây tà, hoặc nấu nướng món thường thì được được, chớ ăn
phay ăn luộc, dùng làm nem thì mất ngon và ăn không thú bằng heo cỏ heo ta: nem
kém dai và nhai nghe xam xảm. Miệt Chợ Đệm, trong Chợ Lớn đi vô, mấy năm thái
bình trước khi có chiến tranh, cũng có món cháo lòng nổi danh một thuở. Người
đất Chợ Đệm, khoe ở đó có nước con sông Ba Cụm chảy ngang, khi luộc thịt lấy
nước sông ở đó luộc thì thịt trở nên giòn ngon, vì trong chất nước có một chút
phèn làm cho săn thịt. Tôi nghe mà không dám cãi, vì cắt nghĩa thế nầy nghe khoa
học quá, đút miệng vào sẽ có người cười rằng mình dốt có tật hay cãi bướng. Nhớ
lại lúc nhỏ, ở Chợ Đệm có một ông thợ bạc có con gái đẹp. Ông kén rể, đứa nào có
đít lôm, cứ xuống Chợ Đệm coi mắt cô nàng, sẽ có một bữa cháo lòng mát ruột và
chuyến về, dầu được dầu không, cũng có một cặp vịt sen đem về nấu cháo ăn thêm.
Nhắc Chợ Đệm là phải nhắc “bối Ba Cụm”, ăn trộm có danh ngày xưa trong vùng. Ra
Huế ăn cháo để đỡ lòng, dám mơ đâu cầu hôn như Lưu Bị thuở trước, e ngoài kia bị
bối Ba Cụm.
Trở lại món ăn xứ Huế, bất nhớ đến tô tiết canh cũng bán tại quán Vĩnh Lợi đường
Phan Bội Châu nầy. Tôi không hiểu tại sao tôi ăn được món tiết canh chỉ tại xứ
Huế mà thôi, về Sài Gòn, tiết canh đường Hồng Thập Tự, và tiết canh ở Gò Vấp,
thiên hạ vào chiều ngồi ăn nượp nượp mà tôi chạy dài không dám rớ; có lẽ tại Sài
Gòn, thời tiết nóng bức, và tiết canh, cũng như thịt đông ngoài Bắc, chỉ ăn vào
mùa có gió lạnh lạnh mới thấy ngon lành. Tôi lại nghe có lão mặc áo dài đen,
trước đây giữ chức trưởng ban văn chương tại trường Văn Khoa, lão có đầu bếp
biết làm tiết canh khéo, lão khoe hoài nhưng tôi tuy vẫn muốn nếm mà không muốn
chơi với con quạ áo đen nầy. Nói vòng vo bắt nhớ buổi đầu tiên học ăn tiết canh
ở Huế.
Tôi, chiều hôm đó bước vào quán Vĩnh Lợi, một mình. Tôi ngồi cùng bàn với một
anh quân binh trẻ nói tiếng trọ trẹ. Thấy anh gọi tiết canh, tôi cũng bắt chước
gọi theo. Anh đòi một ly rượu trắng, tôi cũng đòi nhưng chủ quán sai người mua
cho tôi một ly rượu thuốc, và căn dặn phái mua cho được tại nhà hai cô gái đẹp
gần dốc cầu Đông Ba, phía bên ni nè, gần nhà Hồng Thuận, hiệu buôn mè xửng danh
tiếng. Rượu mua về, tôi nhâm nhi mấy hớp, ly rượu gần vơi, đầu khởi sự quay, vừa
cháng váng tơ lơ mơ thì món ăn dọn ra. Tôi liếc anh quân binh, anh làm sao, tôi
làm y như vậy. Anh lấy miếng bánh tráng nướng, bóp nhỏ thả vô tô, tôi làm theo.
Anh trút hết chén nước tương thơm phức vào tô, tôi cũng làm theo. Anh nặn chanh,
tôi cũng vắt miếng chanh đến không còn một giọt. Anh trút thêm đĩa dưa giá chua,
rồi nào tỏi, nào ớt, nào gừng ngâm giấm, nào riềng thơm, anh đều cho hết vào tô:
thảy thảy tôi đều làm tên học trò ngoan bắt chước thầy không sai một mảy. Đoạn
anh cầm đũa ngó tôi như mời mọc: “Vô ta nè!”. Tôi cũng cầm đũa mời lại: “Anh làm
trước đi?”. Câu nầy tôi nói nho nhỏ trong trí, đủ nghe lấy mình. Anh cười. Tôi
cũng cười theo.
Anh bưng rượu nốc cạn ly, đánh một cái khà. Tôi cũng cạn nốc ly như anh. Anh kê
đũa lùa thật mạnh tay bao nhiêu thứ trong tô vào mồm. Tôi cũng nhắm mắt lùa rau
và máu tươi vào miệng.
Ban đầu tôi tưởng không thể nào nuốt trôi những thứ lạ ấy được, nhưng may sao,
trước có rượu nóng làm tiên phong dẫn đường, và đây sẵn đạo hậu tập, trong miệng
cái gì ngọt ngọt thơm thơm cay cay nồng nồng theo sau, tiết canh lần đầu càng ăn
càng thấy hấp dẫn, ngon lạ ngon lùng; khoái khẩu tôi lùa hết tô đầy, dám húp
luôn cạn nước chất đỏ đỏ béo béo dưới đáy tôi; đến chừng ngó tấm gương lớn treo
trên vách, thấy mồm mép mặt mày tùm lum tề lê những máu và huyết. Khi ấy tôi
đứng dậy, quên chào anh quân binh thầy dạy ăn tiết canh, lật đật lại quầy trả
liền, ra đường gọi một anh xích lô đưa thẳng về nhà Mo-ranh (Đại học Văn khoa),
leo lên giường nằm nhắm mắt, ban đầu ngờ ngợ trông một sự gì xảy ra, hoặc nôn ọe
trả lại cho sàn nhà những gì mới nuốt, hoặc sẽ ngây ngất khó chịu với ly rượu
thuốc gọi rằng rất bổ, không dè tôi đánh một giấc ngon lành thẳng thét, trời
sáng bét hồi nào tôi mới thức. Đã không có bợn dạ, mà dường như trong bụng thấy
mát mẻ hơn ngày thường. Từ đó, tôi ghi vào lòng, kỳ tới nếu ra Huế, thế nào cũng
nhớ ngày thứ ba phải lại thưởng thức tiết canh của lão già Huế sồn sồn, mặc áo
“cháo lòng”, vận quần “huyết heo”, lão không bao giờ biết tắm là gì, nhưng có
tài bào chế tiết canh ngon tuyệt!
Vừa bổ vừa ngon, lại có thêm ly rượu “thuốc bổ”, thì nó khoái thế nào?
Quán cháo lòng quán cháo gà xôi gà, thì từ bốn giờ chiều mới mở cửa, và vừa quá
bảy giờ tối đã đẹp. Khách hàng vẫn mấy mặt, gặp nhau hoài đến hoá quen. Mỗi quán
mỗi ngày mua thịt thà vừa đủ bán, không cần khách ăn khuya, và như vậy không tội
nghiệp cho kẻ lỡ đường lỡ một chuyến tàu. Ngày rằm và mồng một âm lịch, càng
thêm khổ, vì các quán đều theo Phật giáo cữ sát sinh, thảy đều đóng cửa không
bán. Có một kỳ nọ, tôi làm cách, ỷ y có quán, tôi từ chối bữa tiệc đám cưới của
một bạn buôn đồ cổ, chồng Mụ Tám cố mời mọc, tôi không nghe. Rồi từ giã, bước
đến đâu đều cửa đóng then cài, báo hại hôm ấy về phòng ăn bánh mì nguội với nem
chua trừ bữa. Ngươi Huế rất giàu tín ngưỡng rằm ngươn, mồng một, đi đến chỗ nào
cũng thơm nghi ngút hương trầm, và đây là thứ trầm thiệt đất Quảng, thơm nhẹ
lâng lâng thoát tục.
Nhớ đến buổi chiều ăn cơm quán cóc do người Hải Nam làm chủ và đứng làm đầu bếp.
Thú vô cùng. Ngồi cái bàn thấp thấp sát bên đường Trần Hưng Đạo. Ngó tới trước
là phố xá đông đúc toàn những mắt nhung tươi cười, tóc cắt ngang lưng, nón bài
thơ lơ lửng. Ngó ra sau là con sông Hương lùa gió mát, văng vẳng bên tai tiếng
véo von từ đài phát thanh đưa lại, hồn mộng say sưa, con cá béo từ cửa Thuận An
tươi rói, con tôm cũng tươi, đĩa gà luộc hay đĩa mì xào, đang đưa hồn tưởng
chừng lạc lối Thiên Thai.
Trong Thành Nội, số nhà 70 đường Đinh Bộ Lĩnh, có quán bán cháo lươn và lươn
miến, thêm chạo tôm và đồ bổi để nhậu. Vừa lạ miệng vừa ngon thèm. Con lươn đất
đế kinh, thịt thơm, mùi vị rất khác con lươn đất sình trong Nam, tuy cùng một
giống.
Nơi day phố lầu trước khi vào cửa Thượng Tứ, có một quán Hải Nam, có món mì
hoàng thánh tôm xào giòn, thật là hẩu tố (hảo đa, ngon miệng). Con cá bống chiên
của quán này cũng ngon quá thể, ăn giòn đến xương xóc cũng giòn và kỳ vi đều
giòn, nhất là khúc đuôi vàng cháy, thật là giòn khớp, giòn rụm, hằm bà lằng (hết
thảy) đều giòn. Ăn mút từ miệng xương đầu, gặm từ khớp xương đuôi. Ăn rồi bữa
cơm thấy xương rải đầy mặt đất, giựt mình thấy mình rất gần thú hơn gần người,
hèn chi ở Huế, nơi các nhà vọng tộc có tục ăn riêng không ngồi chung với ai. Ăn
chung miệng nhai ngồm ngoàm, e mất thể thống! Làm dân Việt, làm con Lạc cháu
Hồng, được ít nữa hai cái tự do mà qua các nước Âu châu phải cữ kiêng mất thú:
ăn cho thật kêu, cắn xương rôm rốp và húp canh cho thật kêu, húp nghe sồn sột.
Nơi khác gọi như vậy là thất giáo và bất nhã, nhưng nơi đây, như vậy mới là tự
do khoái khẩu. Đến như xương xóc thì nên nhớ ba điều: ăn cơm Tây, tập giấu khúc
xương, không bao giờ gặm trước mặt khách khứa; xương gà xương cá, phải chừa lại
vén khéo sạch sẽ trên đĩa; ăn cơm Tàu tha hồ bỏ vãi vỏ cua và xương thừa trên
nấp bàn trắng toanh như vậy mới cho chủ nhà thấy món đãi khách thật là ngon
miệng; cháu 72 đời đức Thánh Khổng, năm trước qua Sài Gòn dự tiệc nhà nước, đã ợ
một tiếng muốn điếc con ráy ông chủ tiệc là ông bộ trường Quốc gia giáo dục, cả
bàn đều nghe, vì ông Khổng-cháu, muốn tỏ được thết bữa tiệc vĩ vèo. Giữa hai ông
Tây và Tàu, chỉ có người dân Việt, được gần với tự nhiên, hoàn toàn tự do, không
có sự kềm thúc đài các giả, tha hồ mút xương, gặm xí quách (trừ cốt) và cứ bỏ
vãi xương dưới đất, dơ dáy ư, ối thứ nhà nghèo, đâu cần lễ phép, đã sẵn con mực,
con vện tế độ, tẩy uế!
Đường Chi Lăng, từ cầu Gia Hội đi lên, nơi mé trái, một đổi xa xa nhưng chớ qua
khỏi đầu đường Nguyễn Du, có một ngôi nhà trệt rất cũ kỹ, ba căn thấp lè tè,
chưn cột đã bị mối nhắm gần đứt tiện, nơi ngoài mái hiên có bày một lồng kiếng
rất sạch, trong lồng có treo lủng lẳng mười con gà luộc, da vàng lườm tươm mỡ,
xé bán không kịp và phải mau mau vô lãnh phần không kẻo hết, vì độ hơn bảy giờ
tối là đã cạn nồi cháo cũng như trong lồng không còn một con gà; Trong quán,
gạch lót lâu đời nên đã tróc men, chỗ lồi chỗ lõm, nhưng chớ nên khó tánh câu
nệ, chịu khó ngồi chờ phiên, vì cháo ở đây rất ngọt nước và đặc biệt là đĩa gà
xé phay, tôi chưa gặp ở đâu ngon hơn. Khách đài các ở đế đô, thời một tô cháo là
vừa, vừa cho dạ dày cũng vừa cho túi tiền; nhưng đối với khách hạng Trí Thâm,
Bát Giới miền Nam một tô không phỉ. Xin thời thêm một đĩa gà xé phay nữa, và nếu
thấy còn lỏng lẻo, hãy chêm thêm và kêu thêm một đĩa nữa, độc vị xé phay.
Tôi ra Huế nhiều lần, và cứ mỗi ngày thứ năm trong tuần, làm sao tôi cũng phải
ghé lại đây thưởng thức món cháo gà Gia Hội, không phải quán chỉ bán có ngày thứ
năm trong tuần như quán bán bê thui và ca-ri dê đường Phan Bội Châu, nhưng vì
tôi dốt thơ, người ta thì thích ngâm thi Đường “lạc diệp tri thu”, tôi lại thích
ra Huế nếm món cháo gà Gia Hội; Tôi tọc mạch muốn biết vì sao cháo gà xứ Huế
ngon lạ ngon lùng. Tôi định con gà ở đây là gà không lai chạ, không giao thiệp
với gà Mỹ và bởi rặc nòi, nên khi nấu nướng theo cách đơn giản địa phương gà
luộc, thì đặc điểm gà Huế vừa xương mềm, ngọt thịt, nhất là da rất giòn và không
nhớt.
Các bạn muốn cười thì mặc ý, nhưng hãy tin tôi. Có lần về Sài Gòn tôi bắt chước
mua gà giò, lựa thứ lông vàng chưn cẳng vàng, đem về luộc xé phay và nấu cháo
khi ăn vẫn thua gà Gia Hội.
Một phen sau đó, tôi ra Huế, đi một mình lại quán, gọi một tô cháo đặc biệt và
một đĩa thịt xé phay có đủ phao câu, đầu cánh và một đĩa xôi. Tôi để ý mụ chủ
quán trộn gà cách nào để ăn cắp nghề và muốn hiểu tại sao nó ngon đến thế. Té ra
cái bí quyết chuyên môn chỉ dồn trong hai bàn tay trầu của mụ. Mụ đứng bán từ xế
chiều đến xẩm tối, tuy trước bụng mụ có nịt một tấm khăn choàng khá sạch, nhưng
miệng vẫn nhai trầu tay vẫn xỉa thuốc, khi khách gọi gà luộc thì cũng bàn tay ấy
mụ xé thịt, xé chớ không xắt không chặt, khách gọi xôi thì mụ cũng bốc xôi với
bàn tay xỉa thuốc ấy. Đến lượt tôi dặn ba món: cháo gà, gà xé phay và một đĩa
xôi, thì mụ vẫn để y tay từ ban nãy, vốc một mớ rau thơm lấy ngón tay ngất vụn
bỏ vào đĩa, một tay sửa cục thuốc xỉa cho đừng rớt, quẹt sơ tay vào khăn choàng
bụng, xong rồi lấy tay ấy xốc xốc trong tổ gà xé rời, lựa mấy miếng cho vừa giá
tiền, xé nhỏ ra vụn, cho vào tô vào đĩa, bốc thêm mỗi món trong rổ lớn nào phao
câu nào đùi gà, nào chéo cánh như lời tôi đã dặn, đoạn dùng trọn hai bàn tay còn
trầu vừa nhồi vừa trộn xốc xáo, vừa bóp nặn cho đến thịt gà thật nhão mềm, thấm
thía chất ngọt, kế đó lanh lẹ bà thò vá múc vào nồi cháo sôi sục, múc một vá
nước cốt gà nóng hổi cho vào tô vào đĩa, rắc sơ ba hột tiêu lên mặt rồi sai bưng
lạ tôi.
À há! nói có hại bên vai vác chứng miêng, và xin các bạn Huế chớ phiền, sở dĩ tô
cháo gà và đĩa gà xé phay Gia Hội ngon không đâu bì, bí quyết là vì nơi xứ khác,
làm gì có bàn tay trầu mụ bán cháo Huế?
Cà phê Hải Nam mé sông gần chợ Đông Ba, pha thật ngon thơm, nhứt là khi gặp tiết
trời lạnh lẽo buổi sáng tinh sương, mấy lần trước khỉ ra sân bay, đến nhấp tách
cà phê phin lúc sương còn mù mù, hớp từ hớp nóng thơm ngát, sông Hương vận khói,
núi Ngự tăm tăm, lòng lâng lâng không muốn rời. Cánh tuyệt diệu, mấy giọt cà phê
như cam lồ thần tiên...
Chợ Đông Ba, giữa hai quán Hải Nam bán điểm tâm bánh bao và hủ tíu, có một mụ
dáng người cao mảnh khảnh, thường mặc áo dài trắng đã xuống màu hoen, sớm nào
cũng gánh ra đây một nồi bún to ộc ệt. Tôi đã từng dùng bún riêu do mấy cô mỹ
miều bày quán ở Sài Gòn. Mỗi khi ra Huế, mỗi sáng sớm tôi đều chứng kiến mấy chị
sồn sồn thi nhau gánh gánh chạy ngang khu Đại học Văn Khoa Mo-ranh cũ, để chạy
qua cầu Trường Tiền, qua khỏi cầu sao sao cũng hạ gánh xuống, lấy thuốc Cẩm Lệ
ra hút, tán gẫu vài câu cho bớt lạnh, vừa lấy gạch cua gạch cáy ra tán nhỏ, giằm
thật nát, cho vào nồi chao qua chao lại cho đều màu, rỗi gánh ra chợ bán. Tôi
dám chắc trong các chí, không chị nào có nồi bún riêu ngon bằng chị có gánh đặt
ở giữa hai quán cóc Hải Nam chợ Đông Ba nơi mé sông Hương nầy. Tháng chín năm
1967, chị bán mỗi tô là ba chục bạc, thật rẻ không chỗ nói. Chị rất biết chiều
lòng từng người khách. Mỗi lần chị múc, chị xem tướng người mua. Chị liếc sơ, độ
ý khách rồi mới giạo trong nồi tìm miếng thịt giò cho trúng ý. Chú lính trẻ còn
răng, chị lựa khúc xương vừa giòn vừa dai để gặm cho đáng đồng tiền. Đối với
tôi, ông già quá tuổi, chị lựa miếng giò để khi ăn còn nhớ đến phen sau. Có
người nhớ Huế vì khúc Nam Bình canh khuya nghe giữa sông vắng. Tôi mà có ra Huế
biết bao giờ? Một lẽ khó nói, hay là vì khúc xương giò thưởng thức buổi sáng
trên bờ sông Hương
22
Tôi Nhớ Huế- Chuyến Đi Năm 1958.
Tôi lên đường đi Huế hôm nay, 2-4-1958, là lần thứ nhì, vì tháng 3 năm 1955, tôi
đã ra đó một lần rồi. Buổi sáng 2-4, tôi vô sở là Viện bảo tàng, lóng nhóng chờ
lãnh lương. Được 7.790 đồng, để lại nhà 2.790 đồng, bụng bảo dạ khi trở về sẽ
châm vô cho đủ 3.000 xài trọn tháng tiền chợ. Nay đem theo 5.000 bỏ túi, ân hận
thấy ít, vì không mấy thuở được công du ra đất đế đô, cũng, nên thừa dịp mua sắm
vài món Nội phủ sở thích, máy bay khứ hồi, đã có chánh phủ cho không, lại nữa
cơm nước và chỗ trọ, đã có ông Viện trưởng viện Đại học ngoài ấy bao bọc.
Theo lời dặn thì 14 giờ khởi hành, còn lâu hoắc. Đợi mãn giờ làm, đạp xe về nhà
ăn qua loa ba chén dằn bụng, nằm nghỉ lưng được một chút, kế soạn kỹ hành lý đem
theo cho vào túi xách, pha một bình trà ngon ngồi nốc cạn bình, xong đâu đó rồi,
lật đật lên xe xích lô mượn đưa lên địa chỉ 294 Phan Thanh Giản. Nơi đây phái
đoàn tề tựu gần đủ mặt, chỉ còn chờ ông và bà trưởng đoàn đến là khởi hành.
Trong lúc chờ, tôi ngồi đếm, về nữ sinh có năm sáu cô, về nam sinh có trên mươi
người, nay cũng không nhớ tên, duy nhớ một anh Doãn Quốc Sỹ. Đây là các cô cử
cậu cử tân khoa vừa thi đậu, được chánh phủ biệt đãi cho đi “bêu ngựa” Huế đô,
ngắm gái đẹp trai xinh và phong cảnh đất Thần kinh và bổ túc sự nghe sự thấy.
Ông Trương Bửu Lâm, giám đốc viện khảo cổ, làm trưởng đoàn. Nếu có nên cám ơn,
thì cám ơn ông có lòng tốt để cho tháp tùng đi chơi không tốn tiền, chớ lão
Nguyễn Khắc Hoạch và Nghiêm Thẩm, đều là bọn “đi cọp” như mình, không nói hai
linh mục dòng Tên, Larre và Gélinas, và một sư huynh đồng hành thì cũng là
“cọp”. Còn nói gì bà T.B.L., vốn là Bạch Nga xuất ngoại, theo chồng cho biết
Huế, thì cũng là “cọp” cần gì cám ơn. “Phi thuyền” nầy là một chiếc máy bay quân
sự, của lính dù dùng ra trận mạc, tiện nghi không có, từ trước tàu ra sau có hai
hàng ghế băng dài bằng gỗ ngồi “u mê” thấy mẹ, khách ngồi đâu mặt nhau, có mấy
sợi dây treo lòng thòng, phải nắm cho chắc, kẻo máy bay đảo thì té lăn cù, bà
lật bùn rền, hai ông cha văng kiếng, văng nón, lối tóc hớt trọc có chừa một lỏm
tròn giữa óc o. Ngồi một chỗ cả giờ, ngó mặt nhau mãi chán quá. Không biết bụng
ai thế nào, chớ bụng tôi được đi cọp, vẫn suy nghĩ lung tung, tự hỏi thầm: chớ
chi bà L, mập thêm một chút, dễ coi hơn, chớ ốm và giẹp như khô mực, thì bên
Việt Nam phụ nữ đẹp hơn nhiều; còn tại sao cha L., tu hành giống gì mà béo trục
béo tròn, trái lại cũng thì tu mà cha G, lại ốm tong teo, nội cái mặt chỉ thấy
sống mũi cao và cúp vọp, hay lão ta dòng Do Thái? Một cô cử gốc gác miền Nam,
mới gần nửa giờ đã tâm sự và thổ lộ can tràng: “Gái đời nay, không tiền không
sắc như tôi, nên phải đi học làm vốn. Bọn có chút sắc, nhất là có tiền, trai nó
cưới từ hồi mười bảy”.
Mảng nghe đến đó, máy bay đáp xuống sân Phú Bài mà không hay. Khởi hành 14 giờ,
đến Huế 16g30, cũng mau khá đến. Có xe camiông nhà binh đến rước đưa đến toà
viện trưởng, chào linh mục Cao Văn Luận, để ông dạy cho biết ăn đâu ở đâu. Các
cô có nhà cha mẹ tại đây thì cứ về nhà, mấy cô khác gởi vô nhà kín ở tạm chớ
không phải đi tu mà sợ. Mấy anh sinh viên trai ở chung một chỗ với nhau càng
được thêm vui. Ông và bà L., biệt đãi, ở một phòng riêng, còn cha L, cha G, chực
về tạm nơi tu viện ở đây, duy ba đứa tôi, Hoạch, Thẩm, và tôi, một già hai trẻ,
được cắt cho một phòng rộng trên lầu thư viện Đại học, trước đây là trụ sở Ngân
hàng Đông Dương, một toà nhà đồ sộ ngó ra mặt sông Hương.
Sấp xếp hành lý xong mà giờ cơm chưa đến, phái đoàn rủ nhau qua sông ra phố, thả
xích phê dọc đường ngấm sơ cách bán buôn sinh hoạt Huế đô. Vả chăng tôi biết Huế
từ 1955, năm nay 1958, tôi thấy Huế đã tiến bộ nhiều. Năm trước dạo phố thấy
trong một hiệu bán kiếng đeo mắt, có một cái máy nhỏ dùng mài cạnh kiếng, thế mà
cũng có kèm một mảnh giấy trắng viết đại tự quốc ngữ: “máy mài kính” dán lên
trên, tôi nghĩ thầm xứ nầy là xứ văn chương, ông chủ nhà nầy quả là xứng đáng
con cháu quan viên xưa, thích đề thi viết liễn và mỗi mỗi đều trông có dịp khoe
chữ tốt văn kêu. Năm nay trở lại chỗ cũ không thấy cái máy ấy nữa, hiệu buôn
kính đã biến thành một quán buôn sách, và từ buồng trong, nghe lảnh lót vọng ra,
tiếng trong trẻo, có lẽ là của tiểu thơ con gái ông chủ nhà, nếu cô bán hàng làm
công không lý tự do đến thế, hay đây là một Ngọc Cẩm, một Thanh Thuý tương lai
Bà Lâm thấy gánh chè đậu ngự, gọi lại và đãi hết phái đoàn. Mụ bán chè còn mặc
chiếc áo dài vá quàng, thân trên mới tinh, nửa thân dưới, vạt trước vạt sau là
vạt áo cũ nhục nhục phai màu. Chiếc áo nên thơ, cần gì phải nón bài thơ, đây bắt
nhớ lại câu hát cũ: “Áo vá vai, vợ ai không biết? Áo vá quàng chí quyết vợ đây!”
đây hay là tôi, cũng vậy). Và một câu nữa: “thương em thuở áo mới may, Bây giờ
áo đã thay tay vá quàng”? Vá quàng là áo vá nửa thân, trên mới dưới cũ, cũng là
một cách tiết kiệm mót máy lớp trước, dè đâu phong trào tân tiến xằng theo Mỹ
Thiệu, trước kia là Diệm Nhu, đã đánh chết khỏi từ đây, và đây là lần chót tôi
còn thấy chiếc áo vá quàng nầy, và những lần sau ra Huế chỉ gặp bùn rền váy đầm,
áo tân thời eo thắt ngang lưng, hoặc áo thun bó sát thân ngực chớ áo vá quàng
hoàn toàn không thấy nữa. Ăn một chén chè khỏi trả tiền, mà nghĩ bao nhiêu
chuyện. Đường Chi Lăng, phố Gia Hội, hai bên bờ con kinh đào từ đời vua Minh
Mạng, gọi là phố Hàng Bè, trừ những nhà xây cất theo lối cổ nay không thể sửa
đổi canh tân được, còn sót nhiều ngôi nhà đã có từ đời Thiệu Trị, Tự Đức, những
nhà nầy để y như xưa, luôn cả táng đá đã lỳ mòn, có táng kiểu trái bí, có táng
kiểu cánh sen lật úp, rất ngộ nghĩnh, thấy một nhà đang phá ra cất lại mới, bỏ
cù bơ cù bất những tảng đá Thanh kiểu cái trống, giá thử không nặng lắm và nếu
cho mình, mình sẽ rinh về làm kỷ niệm thì hay ho quá! Đâu là nhà Trần Tiễn
Thành, thuở bị ám sát? Và Chợ Dinh ở đâu, có phải là khu khi xưa có dinh quan
Thượng, Phụ Chánh nầy không? Có một mớ nhà khác đã thay kiểu mới, có kê thêm lầu
lẹt đẹt, rộng rãi hơn thì có, nhưng kể về tồn cổ thì hỏng rồi. Những dãy khang
trang tân thời, chiều chiều ngợp khách du, là dãy Trần Hưng Đạo dọc bờ sông
Hương, tấp nập trai thanh gái lịch. Dầu sao và đi đến đâu, thành phố Huế còn lưu
lại nét cổ kính và nhà nào ít nữa cũng còn sót một vài cổ vật: chiếc lư đồng cổ,
cái khán thờ cũ, bộ chén trà xưa hay đôi chậu kiểng đời trước, còn luôn cả chưn
chậu gọi là đôn, làm bằng đá Thanh đã meo mốc lang thương nhiều thế hệ. Đi ngang
nhà cụ Nguyễn Đình Hòe, thấy trong thiên tỉnh có mấy chậu lan và một bể cạn có
kiểu xinh xinh cổ kính.
Ngày 3 tháng 4 - Sáng điểm tâm rồi dắt nhau dạo xem trong Đại Nội. Nơi góc hướng
nam, chỗ trước đây bà Từ Cung ngự, vẫn còn xưa sao nay vậy. Đồ sứ Pháp, đồ sành
do Tây cống sứ và chế tạo tại các lò Sèvres, Limoges, còn giữ được rất nhiều,
mỗi chưa cột đều có chưng một chiếc lục bình cao hơn thước, cái vẽ màu xanh đỏ,
cái phết men thiên thanh, sau đây thấy bày trong vài phòng triển lãm Sài Gòn,
khen cho vật không chân mà biết chạy, hay là vì túi tham không đáy, bất kể vật
cổ tích quốc gia? Và nhám tay, ăn cắp là tội nặng.
Trước mặt tiền nam cung, có một sân rộng tường bao chung quanh, giữa sân có hai
cây vải (lệ chi) do bàn tay ai trồng, lá xanh om, tàn tròn vịn, gốc lớn một
người ôm không giáp: đang trưa đứng bóng, tuy nghe tiếng chim trong lá kêu lảnh
lót mà gió lặng yên lá không lay động, khách như tôi đứng tần ngần lòng xúc cảm
vô hạn, tưởng tượng chốn nầy ngày xưa náo nhiệt oai nghiêm bao nhiêu mà ngày nay
thê lương, lạnh lùng bấy nhiêu nhưng xưa nay gì cảnh vẫn kín cổng cao tường và
vẫn chứa ẩn ruột bí sử khó tả.
Buổi chiều đến cung chiêm lăng Vua Minh Mạng và chuyến về còn dư giờ ghé triện
lại xem vị trí Hòn Chén và điện thờ bà Thánh mẫu Thiên Y A Na linh thính. Trong
các lăng tẩm những vua nhà Nguyễn, không kể lăng đức Thiệu Trị bị hư hại vì bão
lụt nhiều lần chưa tu bổ, so sánh lại, lăng Gia Long hùng tráng đơn sơ ẩn tàng
nét hùng của một người dám chỉ ngay chỗ nằm, ngoài ra lăng Minh Mạng, quả là
lăng tẩm một ông vua hưởng lâu cảnh thái bình và ăn ở theo sách, mỗi mỗi đều đối
chiếu, đình tạ nguy nga, phảng phất một nét buồn rất nên thơ, xứng với một ông
vua kiêm thi sĩ, một môn đệ trung thành với triết lý Khổng Mạnh. Tương truyền
miếng thịt phải xắt thật tròn thật vuông, ngài mới bằng lòng.
Bữa cơm tối xong, chia tay ra về. Ba chúng tôi, Hoạch, Thẩm, và kẻ nầy, rủ nhau
ra ngồi lan can cầu Trường Tiền xem kẻ qua người lại và xem cảnh sông Hương và
thành phố Huế dưới ánh đèn. Lúc ấy chưa có lệ đuổi không cho dụm ba dụm bảy trên
cầu.
Ngày 4 tháng 4 Hôm nay xem lăng Khải Định và lăng Tự Đức, có ông Bửu Kế, giám
đốc thư viện hướng dẫn. Lăng vua Tự Đức rộng lớn và còn kiên cố nguyên vẹn. Nhìn
kỹ lại đây quả là một “tiểu giang san” dành cho một ông vua đã quá mệt mỏi vì
việc nước quá rối ren và đã có ý định rút lui về đây đóng vai thái thượng hoàng.
Ai trách ông bao nhiêu, tôi lại thương và kính ông bấy nhiêu.Tôi kính ông là
người con chí hiếu, tôi thương ông là người chung quanh bị bao vây bởi một bầy
tôi bất tài, buổi tàn niên của ông còn thêm một số ăn hại, phá nát cơ nghiệp,
chuyên ám sát người ngay, và ép vua nhỏ tuổi chạy theo dài dài.
Ở tôn lăng nầy mỗi đình mỗi tạ, mỗi cây cầu, đều có đặt chữ “khiêm” đứng trước.
Đức Dực Tôn rất biết xét mình và trên các tờ “châu bản” để lại chữ son vua phê
có khi còn dài hơn, nhứt là lời ngự phê còn văn chương lưu loát hơn văn các đài
quan cử nghiệp Tôi đã nói ông vua nầy rất hiếu với mẹ, nay đọc lại bài Ngẫu cảm
của ông (xem Nam thi hợp tuvển quyển 1 Nguyễn Văn Ngọc, bản năm 1927, trương
248):
Sự đời ngẫm nghĩ, nghĩ mà ghê!
Sống gởi, rồi ra lại thác về.
Khôn dại cùng chung ba thước đất.
Giàu sang chưa chín một nồi kê.
Tranh giành trước mắt mây tan tác,
Đày đoạ sau thân núi nặng nề.
Muốn để hỏi tiên, tiên chằng bảo,
Gượng làm chút nữa đế mà nghe!
Ông biết như vậy mà cũng không tránh được lời gièm pha của hậu thế, nào bất tài,
nào để cho mất nước. Trách vua Tự Đức rồi thì còn lời nào để trách cứ cha ông
vua vừa bị truất phế gần đây?
Nội cái việc truất phế, chung quy chúng ta vẫn lầm mưu một bọn ỷ đông làm cái
việc thường thấy giữa đám dân làm ruộng trong Nam: một ông chủ điền vì ham mê
bài bạc tửu sắc, bỏ ruộng lên chợ, giao sở đất cho tên “tằng khạo” coi sóc, rồi
tên tằng khạo gian hùng ấy lập mưu hất cẳng, đoạt mất sở ruộng của ông ta; kế
đó, trời bất dung gian, tằng khạo hưởng chưa được mấy năm, bỗng bị người khác hù
làm cho hết hồn, chạy mất dạng rồi về chầu âm phủ luôn, thật là đúng như câu 3
bài nầy: khôn dại cùng chung ba thước đất.
Xem hai lăng về, cùng phái đoàn dùng cơm chung của ông viện trường đãi. Mãn
tiệc. Thẩm, lui về phòng nghỉ ngơi, tôi rủ giáo sư Hoạch cùng đi với tôi ra bến
xe, ngồi ô-tô buýt qua Kim Long, mò đường lần đến nhà ông Nguyễn Hứa Huệ, định
đến đây tìm mua đồ cồ ngoạn. Ông Huệ là một y tá từng đi chích thuốc và trồng
trái dạo khắp đó đây và châu lưu khắp các nơi hiểm hóc miền Trung, cho nên khi
về hưu, ông góp nhóp đầy nhà những đủ thứ đồ cổ từ cái hũ đời Đường, Tống, qua
cái chén sứ đời chúa Trịnh đến cái tô đá đời Tây Sơn. Một kỳ trước ông đề nghị
bán trọn nhà cho tôi với một giá rất hời, nhưng tôi đã bỏ ra dịp tốt vì lúc ấy
tôi quyết dành tiền cất nhà để ở, hơn sắm đồ cổ mà tôi đã có nhiều. Kỳ nầy tôi
lại thì ông đã bán tất cả cho ông Hoàng Nai, những món còn lại đều xoàng xĩnh,
tôi mượn của Hoạch một ngàn bạc để mua một chậu sành, gọi quán tẩy, nhưng khi về
đến Sài Gòn tôi bán lại cho ông Nai, lỗ mất mấy trăm bạc, vì xem kỹ, cái quán
tẩy tầm thường quá tôi đã mua lầm. Và tánh tôi không thích giữ gì trong lòng đã
hết ưa. Sở dĩ tôi rủ được lão Hoạch đến Kìm Long, vì tôi khoe nhà ông Huệ, kiến
trúc lạ lắm: Và nhà nầy quả rất đáng bỏ giấc nghỉ trưa để lặn lội đi tìm. Tôi
chỉ cho Hoạch những nét đặc sắc của ngôi nhà lợp tranh nầy. Bề ngoài, nhà xem
rất đơn sơ tầm thường, nhưng khi bước vào trong rồi, mới thấy cái vẻ đẹp khó
kiếm của nó. Nhà chạm trổ thật khéo, dẫu nhà lợp ngói cũng không khéo bằng. Mấy
hàng cột đều nhỏ chột thôi, độ một tấc ngoài trực kính, nhưng trơn láng bóng
thấy mặt, nhẵn nhụi như có đánh một lớp sơn, sau rõ lại đây là loại cây lọ nghe,
một loại gỗ mun là giống gỗ rất hiếm, và ít khi được ngay ngắn suôn đuột hầu làm
cột nhà. Đặc điểm của ngôi nhà nhỏ bé nầy là có chưng mấy tấm “liên ba ngứa” tức
những phiến gỗ chạm hoa sen (liên hoa, đọc trại “ba” vì cữ tên một bà hậu đời
Nguyễn). Mấy tấm liên ba ngửa nầy chạm trổ rất công phu, có dây, có lá, có hoa
sen đại hoá, có ngó sen bỏ vòi tinh xảo như một bức tranh thêu và vì lâu đời quá
nên đã lên nước đen thui bóng ngời. Theo tôi, đây là một lối làm thêm đẹp một
ngôi nhà tranh, tức chạm những phiến gỗ nầy đúng ni tấc lòng căn rồi đóng đinh
bắt ốc miếng chạm lên mái để che bớt lá tranh lợp không đều; tôi chưa thấy một
kiểu nhà nào như vầy và chưa vội kết luận nhà ngói nơi địa phương khác có nên
dùng liên ba ngửa nầy không. Dầu sao, nhà tranh Kim Long của ông Nguyễn Hứa Huê
có qua khỏi nạn hoả tai năm Mậu Thân chăng? Ở Sóc Trăng, năm xưa tôi có gặp nơi
làng Thạnh Thới An, một nhà lá cột tre, mà tôi xin đổi với một vuông nhà ba căn
vách gạch lợp ngói, nhưng ông chú nhà lá không khứng đổi. Về sau nhà này gặp nạn
thổ đốt và đã không còn, thật đáng tiếc. Theo tôi, trường kiến trúc nếu biết lo
xa, nên tìm những kiểu nhà nầy lấy kiểu để dạy hoặc mua về dựng lại cho trẻ đàn
em học thêm thì hay biết mấy.
Ngày 4 tháng 4 là ngày lễ đạo kỷ niệm ngày Chúa thăng thiên, nên phái đoàn không
dẫn dắt sinh viên đi dạo, Hoạch, Thẩm, và tôi, nhảy rào, không đến quán ăn chung
với phái đoàn. Chẳng những vậy, thay vì thăng thiên, chúng tôi kiếm chỗ nhậu và
ác ôn thay quán nhậu bán thức ăn rất ngon lại có tên rất chướng: “Quán cơm âm
Phủ”!
Ngày 5 tháng 4 - Ngày nay là 17 tháng hai âm lịch, đúng ngày giỗ mẹ, thế mà mảng
ham rong chơi ngoài nầy khiến lỗi đạo làm con. Tuy có nhớ ngày và căn dặn ở nhà
phải nấu mâm cơm đạm bạc miễn thật lòng thành, dầu vậy cũng không khỏi thắc thỏm
chốn tha phương. Sáng hôm sau, còn nằm trên giường nghe bầy sẻ trên ngay cửa sổ
kêu rân, khiến nhớ nhà ghê. Chim sẻ bất cứ ở đâu cũng chót chét một giọng, không
giọng Huế giọng Sài Gòn gì cả. Ngày thường không để ý. Nay vừa xa nhà mấy hôm đã
khắc hoải và phân biệt nọ kia. Đi ra ngoài lạ mắt lạ tai, vui lên nên quên hết.
Nay giựt mình không có mặt ở nhà để dâng nén hương trên bàn thờ mẹ, tui hỏi tủi,
buôn huyền buồn. Người sao quá giàu nghị lực, lưu vong bình bồng đâu cũng là
nhà, như vậy mới làm quốc sự và làm chuyện lớn được. Tâm trí như mình, không hơn
đàn bà. Theo chương trình, hôm nay phải dậy thật sớm để đi lên lăng Thiên Thọ là
lăng đức Gia Long. Đường vẫn xa hơn các lãng khác, lại rất vắng vẻ; biết đâu
không gặp người lạ mặt làm khó dễ lại cũng phải đề phòng rủi ro việc khác. May
sao, nhờ tàu máy và xe đưa mau lẹ, nên tiết kiệm được thì giờ quý báu. Lên đến
chốn lại bất được một tin mừng khác là sẽ mục kiến tại chỗ một buổi lễ tế chư vị
tiên đế, vì bữa nay đúng là ngày thanh minh. Lễ do chánh phủ ra lịnh tổ chức và
do phủ Tôn nhơn cử hành. Đây là một dịp hiếm có, mừng thầm để xem ngoài này tế
lễ ra thế nào, chắc là trịnh trọng lắm; ngờ đâu xem được rồi lại càng thất vọng,
buồn tủi cho các liệt thánh, các vua cũ nhà Nguyễn.
Theo tôi, thà chánh phủ nhà Ngô nên bỏ qua đừng nhắc đến, còn hơn là sai làm lấy
có. Khéo bày đặt một lễ tạm bợ, thiếu nhiệt tâm nhiệt thành. Đám cúng giỗ các
vua trước, từ Gia Long đến Tự Đức, thế mà lộn xộn còn thua đám ma nhà héo trong
Nam. Chúng tôi đang đi và nói cười dưới núi, vừa bước chân lên vòng lăng. Tôi
đang đứng than thở trước cảnh voi đá gãy vòi, ngựa đá sứt tai, con nầy mất đầu,
ngựa kia gãy đuôi, và hình đá các công thần, ông mất gươm, ông khác đầu lìa khỏi
cổ lăn nằm dưới chân bên đôi hia gãy mũi, có vài ông còn nguyên vẹn thì chạm trổ
không cân xứng, phần nhiều thân hình nhỏ bé, còn đầu thì quá to, tỏ ra nghệ
thuật đời Cao hoàng kém thua nghệ thuật Chiêm Thành và Cao Miên, duy không hiểu
có phải vì ẩn ý tạc tượng nhỏ để ngụ ý chỉ có ông vua nằm đó là lớn? Vì câu nệ
nghi thức cổ hủ, nên mỹ thuật đi đời nhà ma, thuở nay mả vôi hạng nhà giàu trong
Nam đến thằng lùn chun qua không lọt cái cửa thấp lè tè, cũng là vì bởi!
Nếu có được một chút đắc thể là trải bao tuế nguyệt nay tượng đã rêu phong meo
mốc và tuy bằng đá nhưng vẻ mặt ông nào cũng có dáng tiều tuỵ rầu rầu phải chăng
đá cũng biết buồn cho cuộc phế hưng thời đại. Đang đứng nghĩ ngợi, bỗng nghe
tiếng chuông tiếng trống đánh dồn: tiếng kèn, tiếng thanh la inh ỏi tôi lật đật
bước săn lên chánh điện để kịp xem hành lễ cúng Thanh Minh. Từ dưới dốc leo lên,
ngước mặt thấy trước tiên bốn cái lọng vàng gió đưa và cờ xí tung bay phấp phới,
lòng tôi rộn rực và khiếp phục, nhưng khi đến gần thì đây là một cảnh xốn mắt
làm sao. Thuở nay lư hương thờ các tiên đế, lại lấy tô rồng năng móng cắm nhang
vào, thôi cũng châm chế được đi. Nhưng tại sao nơi bàn hương án, tấm quân bàn và
tấm lá chấn thêu vẫn không có và thay vào đó, là mấy tấm vải Tây đỏ tạm bợ,
“chửi” mấy tô Nội Phủ lư nhang, và cảnh xem tang thương não lòng làm sao.
Tội nghiệp hơn nữa, là năm ấy vừa xảy ra một trận bão lụt lớn, và để tránh ngập
nước, các chưa bàn đều kê gạch vụn, vừa xấu xí, vừa không xứng nghi thức tế thờ
vua chúa chút nào.
Nghĩ cho các vua là vua mất nước, đây là lễ của người ta gắng gượng “thí” cho,
nên có khác. Nhưng vong hồn các vua hưởng sao vô? Chủ đứng tế, là tộc trưởng
trong tôn nhơn phủ. Như vậy cách lựa người đã xứng đáng lắm. Ngặt thay người ấy
lại là người theo Jésus. Vì đã theo đạo Gia-tô, nên ông nầy, tuy cháu mấy đổi
của đức cao hoàng, lại từ chối không chịu lạy trước bàn thờ tổ tiên theo lễ
Khổng Mạnh dạy. Người ta đón tiếp phái đoàn văn khoa Sài Gòn, niềm nở đưa chúng
tôi vào chỗ tế, rồi nghĩ sao ông dạy qua nói tiếng bơ với cha L, và G. “Lát nữa
hai cha xem, tôi không lạy đâu! Lạy người chết trái với đạo của mình mà!”.
Tội nghiệp hai ông linh mục L, và G, khuyên giải cách mấy ông cũng nằng nặc
không nghe, bởi ông là người triệt để theo thiên chúa giáo.
Hôm ấy tôi lại thấy trên bàn lễ có để thờ nhiều bài vị, thảy đều sơn son mạ
vàng. Đây là ông tộc trưởng nghĩ ra cách dồn các vong linh các tiên đế vào một
chỗ để tế cho gọn, quên rằng xưa kia, thể thống nhà vua, không khi nào ngồi ăn
chung với một ai. Trong gia đình nghèo cũng vậy, bao giờ cháu con ngồi ăn chung
với ông bà? Vả chăng mỗi vua có mỗi lăng, và mỗi chỗ nên có một cuộc tế khác
biệt, nay tế một chỗ, các hồn vua cháu vua con nào dám cùng mâm đối toạ với vua
tổ vua cha, rắc rối vậy thay, và các vong tiên đế phải một bữa nghẹn ngào tụ hội
hưởng nhậm ăn nuốt sao vô? Nghĩ mà xót xa giùm. Tội lắm, ngheo ông tộc trưởng
Tôn nhơn phủ?
Tôi thấy có tất cả ba bàn thờ, trên mỗi bàn cồ đặt nhiều bài vị. Ông tộc trưởng
đã không khứng ra đứng lạy hành lễ, các chi nhánh khác vẫn luân phiên thay nhau
ra quỳ lạy đúng phép. Nhưng các người ấy, khi thì rất đông, đến trên chục người
xúm xít đứng chật một chiếu lễ, khi thì lải rải chỉ có năm ba ngoe, lạy lưa thưa
trên một chiếc chiếu trải bên tả hoặc bên hữu chiếu giữa. Tôi không hiểu rành,
nên hỏi nhờ một cụ Ưng..., đứng bên cạnh tôi (cụ làm việc nơi viện Văn hoá Huế).
Cụ dạy nhỏ: “Đông người hay ít là tuỳ theo dòng lớn nhỏ, tuỳ thế hệ, tỷ dụ thế
hệ “Ưng” nay đã ít ỏi nên lưa thưa, thế hệ “Bửu” còn trẻ tuổi nên nhiều và đông
hơn. Vả lại khi tốp nầy lạy bên tả, tốp khác lạy bên hữu, là tuỳ theo chi nhánh,
lạy ông bà của dòng mình, còn ông bà dòng khác thì đã có dòng khác lạy”.
Đến lượt một nhóm ra đứng hành lễ, thấy có một vị chít khăn chữ “Nhứt”, mặc áo
dài rộng kết nút ngà, xem phải thế lắm, nhưng nhìn kỹ thấy ông vận quần
“bi-ra-ma” (pyjama) sọc dưa lằn xanh lằn trắng là thứ y phục vận khi ngủ khi ở
tư thất của Tây u, tôi không nhịn được, day qua hỏi cụ Ưng, cụ lấy cùi chỏ thúc
tôi và đáp giọng bực tức: “Hỏi làm chi? Cái quần cúng lễ, nó đã bán ăn rồi!”.
Nhờ dự lễ nầy, lần thứ nhứt trong đời tôi, tôi có dịp hớp một chung trà “ngự tứ
ướp sen”, nhưng vua chúa đâu còn? Hương trà vẫn thơm hơn các thứ trà đã nếm,
nhưng hưởng chốn nầy, khi ngôi vua đã sụp đổ từ lâu, dẫu thơm cách mấy, hương
trà không còn ngon như chầu trước. Dòm lại mình, thấy ăn vận lủn củn trong bộ áo
ngắn cụt tay, lại tự hổ thầm, ngày xưa được uống trà vua, phải quỳ lạ y và áo
khăn chỉnh tề đâu có như vầy? Và sự đổi đời, giá trị chữ Tự do, là như thế hay
sao? Được cái nầy mất cái kia là vậy.
Nghe nói giống sen nầy lấy giống tự bên Trung Quốc, và khi xưa, hột sen hái nơi
hồ lăng Thiên Thọ, luôn luôn phải dành cung tiến nội cung. Bông sen cũng lớn đoá
và hương thơm hơn các giống sen khác. Và cũng nhờ có mặt hôm nay tại buổi lễ nầy
mà tôi hiểu lễ xưa nhà vua “ban thịt tợ” ra sao. Nhơn buổi lễ tế, tôi để ý nơi
gian nhà sau chỗ tế, thấy đang đứng ngồi lóng nhóng từ buổi sáng sớm một nhóm
rất đông, có người sồn sồn, có kẻ đã già sụm, nhưng toàn nhẵn nhụi ông nào như
ông nấy cằm mép không một sợi râu, và thảy đều mắc áo dài rộng màu lam dợt, da
trời. Đó là mấy quan thị xưa, các vị thái giám, nội giám của triều đại cũ nay
còn sống sót. Một lát nữa, khi lễ tất, các vị nầy sẽ khiêng ba con tam sênh (tam
sanh) vào đây, rồi sả nó ra từng miếng lớn miếng nhỏ và tuỳ phẩm trật, tuỳ địa
vị, sẽ phân phát chia sớt, trước cho các ông các cụ dòng hoàng tộc, sau cho các
ông giám nầy cùng hưởng “Miếng thịt làng hơn sàng thịt chợ”. Không chi đó cũng
là bổng lộc hoàng ân, và ban thịt tợ chầu xưa làm tạm ắt như thế nầy. Đây là
thịt kiếng các tiên đế trước. Nhưng nói ra thì thẹn, và xin nói nhỏ đủ nghe:
- Con heo quay, đã nhỏ vóc lại ốm tong, da lợt lạt vàng mét, thật không bằng con
heo hàng, con heo quay treo nơi sạp một anh Chệc Chợ Cũ Sài Gòn.
- Con dê luộc, da tải mét, có chỗ cạo chưa sạch lông, không ngon mắt chút nào!
- Con bê thui, vì làm hối hả, từ lúc nào, để đến hôm nay, đã có mùi. Bê thui trở
mùi, ăn nín thở, thì ăn sao vô?
Ngó kỹ ba bàn thờ, thì than ôi ông trưởng tộc Tôn Nhơn Phủ đã quên mất bổn phận.
Bổn phận của ông, do chánh phủ cắt sai, là đến đây hành lễ dâng hương cúng ông
bà ông vải của ông, và cúng theo đạo Nho do ông bà để lại. Như ông muốn giữ
chính đạo Giatô và vì ông là công giáo, thì ông nên từ khước. Bằng ông đã đại
diện chánh phủ, thì đến đây lễ buộc ông phải khấn vái và lạy theo cổ tục ông đã
không làm như vậy, tức ông mang tội với vong linh người chết và cũng mang tội
với người sống. Nếu ông a dua tân trào, ông hành lễ miễn cương, gắng gượng,
không ai khen ông đâu, lương tâm ông sẽ xét xử và sau nầy lịch sử sẽ phê phán
ông.
Vua khi xưa, ăn mâm lớn cỗ đầy và ăn một mình một mâm. Không ăn thì hồn có đói
chăng? Chớ ăn như vậy thì tủi. Người sống thấy còn khó chịu thay. Tôi không trả
lời được. Ông sẽ đọc mấy hàng nầy không? Ông là dòng dõi vua, cháu chắt đức Gia
Long, không thì cũng xa gần cháu con các vua khác. Nay ông dồn bài vị các vua cũ
làm một chỗ, ông không lạy, theo tôi, ông có lỗi lớn với tổ tiên ông.
Ngó lại các hoàng hàng phái có mặt tại buổi lễ. Nhớ lại, vị nào có danh phận
lớn, địa vị cao, bề thế rộng, hoặc có tiền trong túi, thì đã cao chạy xa bay,
hoặc ở Paris, hay nơi ngoại quốc khác, không nữa cũng đã vào Sài Gòn. Còn lại ở
Huế đô, người có máu mặt thì viện cớ nầy cớ khác, ở lại nhà hành lễ tại gia.
Những người hiện diện hôm nay ở đây, hoặc vì phận sự bắt buộc, hoặc vì không nỡ
bỏ ông bà nên phải đến dự, kỳ dư, như tôi thấy, bây giờ tôi mới hiểu vì sao các
ông hoàng có mặt, không ông nào giống ông nào, như đã nói nơi đoạn trước.
Ở lăng Gia Long về, nhờ xuôi con nước nên tàu chạy mau, tới viện Đại Học, trời
còn sớm chán. Ngó đồng hồ thấy điểm mười lăm giờ. Tôi lật đật gọi xích lô nhờ
đạp lên hồ ông Hoàng Mười, đường Võ Tánh, tìm thăm Cụ ấm Tư Lưu Đình Tiễn. Để tỏ
tình sơ giao. Cụ ấm biếu tôi một ấm Mạnh Thần, nhỏ và đẹp như loại ấm Cổ Nguyệt
Hiên. Từ chối cách nào cũng không được. Té ra lòng tốt của tôi, đổ đường thăm
bạn cố tri, lại hoá ra vì bụng tham vì ích kỷ. Đến để xin ấm trà, một ấm trà quý
không dễ gì tìm! Lòng tham chỉ biết nhận, mới là xấu hổ hơn nữa?
23
Buổi Tiếp Xúc Với Ông Ngô Đình Cẩn.
Ngày 6 tháng 4. Bữa nay chúa nhật, phái đoàn được thong thả trọn buổi sáng. Tôi
rủ giáo sư Hoạch và Thẩm qua phố Gia Hội. Ông Hoạch gặp gánh bún riêu bán dạo,
thèm món nầy từ lâu nên gọi một tô và đứng ăn ngoài đường bất chấp người thấy.
Trong khi ấy tôi ghé nhà buôn đồ đồng góc đường nơi đầu cầu và trả mua được một
lò hương (hương lô) có quai xách và một siêu đồng để nấu nước pha trà, hai món
nầy giá 350$ và 90$, cả thảy là 440$, sau có người ở Sài Gòn nài mãi nên tôi đã
bán. Buổi trưa, Hoạch và Thẩm, và tôi, bỏ bữa cơm của ông viện trưởng, nhảy dù
đi ăn bánh khoái khỏi cầu Đông Ba đường Võ Tánh, đúng là ngon và lạ miệng. Nhưng
khi trở về chỗ trọ thì hết khoái, vì có lịnh dặn chiều nầy không được đi đâu, và
phải túc trực vào 17 giờ, y phục phải cho đúng đắn và phải cho đủ mặt để đi chào
ông Cố! Cố đây là cố vấn Ngô Đình Cẩn, Cậu út Trầu xứ Huế, cục cưng của triều
đình nhà Ngô danh gọi cố Trầu. Và bữa ra mắt ông Cố vấn nầy mới là đáng kể, mấy
trang viết từ trước chỉ là để có món tiền nhuận bút của tạp chí Bách Khoa của
anh Lê Ngộ Châu. Tuy nói rằng đủ mặt, nhưng trong phái đoàn có hai linh mục dòng
Tên và một bà đầm gốc Nga, lẽ đáng phải có mặt, nhưng đoàn viện cớ xin ba người
ở lại nhà đừng đi. “Chúng tôi không chừng có bàn đến quốc sự cơ mật” - kỳ trung,
ông cố vấn ghét Tây và không biết tiếng Tây, nên không khứng tiếp, và báo hại
ông viện trưởng phải một phen nói láo. Trước tiên, ghé nhà ông viện trưởng, ba
đứa tôi cám ơn người đã tất tình và đã lo lắng cho cả đoàn mọi việc từ miếng ăn
đến chốn ngủ. Ngồi nơi xa-lông của ông Cao Văn Luận, anh Doãn Quốc Sỹ ham làm
tàng, xin hút nhờ một điếu thuốc lào, vì thấy bình điếu tuy bằng gốc tre nhưng
có viền bạc khéo xem rất mỹ thuật không dè tuổi trẻ láu táu, vừa kéo một hơi là
sặc sụa, ho có dây, ai nấy đều cười lên ruột.
Cặp mắt viện trưởng long lanh dưới đôi nhỡn kính trắng. Ông Lâm dường rất thân
với viện trường và xưng hô “con” ngọt. Đồng hồ điểm quá 17 giờ, xe ca-miông
chúng tôi mới đến trước cổng nhà ông Cố vấn ở Phú Cam, nguyên là nhà cũ của cụ
cố Ngô Đình Khả để lại. Ông Cẩn rất có hiếu với mẹ, nên mặc dầu thay bực đổi
ngôi, nhưng mẹ ở đâu con ở đó. Vả lại tánh bà cụ cưng con út nhiều cho nên nay
giang san trong tay, “phú hữu tứ hải”, bà cụ và cố vấn, ưng thủ cựu thành Phú
Cam hơn là điện ngọc lầu son chốn khác. Xe ngừng cửa ngoài, có người vào báo.
Ông Cẩn mở hé cửa hông ló đầu ra, liếc thấy chúng tôi độ mười lăm mười sáu
người, vội ập cửa lại, miệng la lớn: “Chu choa! Đi đâu mà đông rứa! Ai có đủ cho
mà ăn?”. Đoạn ông mời riêng ông viện trường bước vào sân trong, hai người to nhỏ
với nhau, kế ông viện trưởng bước ra, dặn khéo chúng tôi hãy đi bách bộ giây lát
để ông cố vấn có thì giờ xếp đặt cuộc tiếp kiến. Lối nửa giờ sau, ông cố bổn
thân ra mời, và khi cho khách vào, không hiểu vì ý gì, ông không mở cửa cái và
chỉ mở cửa hông và cho chúng tôi lách mình vào từng người một. Trong khi chúng
tôi đều mặc đại lễ đại phục, nơ, cà-ra-oách đàng hoàng, chính tôi chật vật lắm
mới mượn được một cà-vẹt đen dư dùng của lão Thẩm, trong khi ấy ông Cẩn mặc một
bộ đồ lụa lèo, kiểu “xá-xẩu” cắt may như kiểu áo bọn lính mật thám thời Pháp
thuộc, chưn mang đôi giày da láng đen kiểu đi ban (escarpin).
Ông đứng hiêu hiêu tự đắc chờ ông Cao Văn Luận, giới thiệu từng người, rồi ông
mới bắt tay chào. Nói thật, tôi lúc ấy chưa biết cái oai của ông cố vấn. Tôi
thuở nay vẫn tôi là tôi, tôi kiếm chuyện cũng không hề bợ đỡ ai. Tôi lại có cái
tật lấc khấc, cứ tưởng người ta cũng như mình, tóm lại tuy có tuổi nhưng tôi vẫn
làm như “ngựa con chưa từng gặp khái”. Tuy ông Cẩn, năm 1958, đã ở ngôi cố vấn
của anh mình từ bốn năm nay, từ 1954, nhưng nói chí tình, ông chưa hách lắm như
mấy năm sau nầy. Ông Cẩn vừa bắt tay mọi người, vừa nói chuyện không thôi với
ông Cao Văn Luận. Tôi mới là dại cho chớ! Đến phiên tôi chào, tôi vừa bắt tay
ông Cẩn, miệng vừa dứt một câu chuyện kháo với một sinh viên. Tôi bước tới nắm
tay ông và gặc thật mạnh, bất ngờ tay áo của ông bật lên và lòi ra một chiếc
vòng bằng vàng thật lớn lủng lẳng khuất trong tay áo, nên nãy giờ không ai thấy.
Tôi giựt mình và thầm tự trách mình đã quá trớn, cũng may ông Cẩn không nói gì,
duy tôi còn nhớ tay ông mềm mại khác thường và no tròn như bàn tay một người đàn
bà ăn không ngồi rồi, hoặc nói theo giọng thầy tướng, như bàn tay một người phúc
hậu, giàu sang sung sướng mãn đời khỏi lo. Chiếc vòng ông đeo đang làm cho tôi
lưỡng lự phân vân, thì ông đã buông tay tôi để bắt qua lay người kế tiếp. Cùng
một lúc tôi bước vô trong và cũng vừa lấy tay gãi mũi, thoạt nghe thoảng qua tĩ
quan rõ ràng là một mùi “nị”, một mùi Chà, một mùi hương lâng lâng nửa như trầm
hương, nửa như nước hoa của bọn thầy phù thuỷ Xiêm-Miên, hay Ấn Độ quen dùng. Lạ
quá! Người gì đeo vàng như gái, lại xức dầu thơm!
Bàn tiệc vẫn đặt chưa xong, khách vào trong vẫn đứng tần ngần lóng ngóng. Ông
Cẩn mời chúng tôi đi một vòng với ông trong vườn, để tiệc được sắp xếp an bài.
Nhà họ Ngô Đình, lớp xưa như thế nào, chưa biết được. Chớ cảnh Ngô gia trang
(nên gọi đây là Vương phủ chưa), năm 1958, lúc tôi được biết, cũng là lạ lùng
lắm: Vuông nhà chính, mái lợp tranh, có lẽ là nhà tổ phụ từ ông Khả để lại sao
thì nay giữ y không đổi. Đứng ngoài sân dòm theo cửa sổ, thấy bên trong lót
nhiều bộ ván gỗ, và sao nhiều thế? Thứ ván hai, tức hai tấm cỡ chín tấc bề
ngang, ba thước, ba thước hai bề dài và hơn một tấc bề dày, lót làm một bộ ván
mỗi bộ, mặt bóng lưỡng, dường như mỗi ngày mỗi đánh bóng lau giồi nên lên nước
đỏ au láng trơn thấy mặt. Ván nầy do ông bà để lại hay vừa sung công đây đó đem
về và để chật nhà làm vầy? Tôi lại thấy rất nhiều người chạy lăn xăn trong nhà,
mặc áo dài xanh, chân đi đất không guốc dép, vì đứng xa nên không rõ những người
nầy nam hay nữ, đàn bà hay nội thị không râu nay lạc mất vua theo chầu ông cố,
hoặc nữa đây là hầu thiếp tôi tớ tay sai. Thảy đều sồn sồn, không người nào trẻ.
Chung quanh bốn góc nhà nầy có dựng bốn cái nhà canh lô-cốt cao cẳng, đây có lẽ
là bốn tháp canh mới xây cất gần đây, kiên cố lấm vì làm bằng bê tông cốt sắt,
nhưng ông cố Trầu mới vọc vạch học chơi đồ cổ mà không có chút hiểu biết gì về
chiến thuật học, nên bốn cái tháp canh nầy, phần trên giống giống cái bồn chứa
nước của các xi-tẹt nhà Tây miền Nam, có thang sắt leo lên, còn khúc giữa biến
thành lồng lớn, ông nuôi một con thượng cầm, và sát dưới đất có một chuồng khác,
ông nuôi một con hạ thú. Ông Cẩn không nói ra nhưng muốn địch thể với Sài Gòn,
lập riêng một vườn bách thú, vừa nuôi chim lạ thú lạ, như voi có, cọp có, ngựa
có mà cũng có chim lớn con như nhan sen, già đãy v.v... Một điều đến nay tôi
không cắt nghĩa được là hôm ấy chính mắt tôi thấy ông Cẩn gọi một con hổ con lại
gần lưới chuồng, ông đưa mồi cho hổ ăn, một tay ông vuốt đầu nó như ta vuốt đầu
mèo. Ông có ma lực gì? Trong buổi chiều hôm ấy, Hoạch và tôi bị ông sửa lưng
nặng. Trong khi ông mắc bận cho cọp ăn mồi, bỗng giáo sư Hoạch đưa vài cô nữ
sinh đến gần và cắt nghĩa: “Đây là hổ, hổ ăn thịt”. Nói chưa hết câu, bỗng nghe
có tiếng Cố gắt thật lớn: “Hừ? Hổ nào ăn thịt? Người ta đâu có tiền nhiều mà mua
thịt cho hổ ăn? Hổ nó ăn cơm!”. Chúng tôi ai nấy đều nghẹt thở khi nghe Cố giải
thích làm vậy riêng tôi rất khoái thầm khi thấy một ông giáo sư đi học bên Tây
về, bị Cố dạy đời, Hoạch thấy tôi che miệng cười, Hoạch oán tôi mà tôi không hay
biết và lát nữa anh em cô bác sẽ biết cách trả thù của Hoạch. Nghe Cố giảng bài
bác vật học xong, mỗi người tản lạc đi xem chỗ nào mình thích. Bỗng một nữ sinh
kêu gọi tôi giựt dội: “Thầy ơi thầy? Lại đây thà xem con chim gì dữ quá, nó mới
nuốt sống một con chim bồ câu đây nè?”. Tôi bước đến gần lồng, nhìn kỹ con chim
và làm tàng, nói lớn, cắt nghĩa vừa cho cô nữ sinh và cả nhóm nghe: “Đó là con
chim Pháp gọi marabout. Trong Nam, thấy nó có cái đãy dưới cổ để đựng cá tép đem
về cho con, nên gọi con già đáy, nơi khác thấy nó đầu trụi lủi không còn một sợi
lông nào nên đặt tên nó là “con già sói”. Vừa đến đó bỗng nghe sau lưng có tiếng
“Hừ! Hừ” y như lúc nãy, vừa day lại thì thấy Cố Trầu. Ông hừ tôi rồi nói: “Nói
tầm bậy! Đó là chim ông Lão, biết chưa?”. Tôi nín thinh chịu trận, nhưng trong
bụng thấy tức mà không dám phản đối. Tôi đưa cô nữ sinh qua chỗ khác và để gỡ
xấu, tôi nói nho nhỏ đủ cho cháu ấy nghe: “Cố nói khi nãy thầy không dám cãi. Vì
ở Huế gần vua chúa, nên dân ở đây lễ phép quá độ, như vậy mà còn nay rầy mai
phạt. Thấy già mà không dám dùng chữ già và bởi huý nên dùng chữ lão. Lão hay
già cũng vậy. Một đàng thích nói chữ, một đàng ưa dùng nôm. Bọn ta, người trong
Nam, không có vua từ lâu, nên mạnh miệng: hễ chim sói và già thì gọi chim già
sói, thấy nó có đeo cái đãy thì gọi con già đãy cho vui vui, kỳ trung không có ý
gì thất lễ. Nhưng cháu giữ đấy, Cố nghe e khó cho thầy”.
Quan khách đi một vòng giáp khu vườn và đang đứng xem một con voi nhỏ ăn mía cây
thì có người lại báo tin tiệc dọn đã xong, nên Cố mời chúng tôi trở lại nhập
tiệc. Nghĩ cho ông Cố nầy cũng thường thật. Mời chúng tôi tới nhà mà không cho
chúng tôi vào nhà. Bàn tiệc đặt trước đại môn, nơi sân rộng có trồng lan chậu và
lan treo (phong lan), lúc ấy đang trổ bông, hương đưa phảng phất.
Trong lúc các anh em đưa nhau tìm chỗ ngồi, thì cái tật tôi không chừa và tôi
còn lục đục mảng nhìn một con cọp từ xa đứng trấn góc vườn, trong cảnh nhá nhem
gần tối. Mới thoạt trông thấy hình dáng một con cọp to lớn đen đen, ngồi chồm
chỗm hai tay trước chống xuống đất, xấu xí và không được khéo lấm, không ra vẻ
cọp thiệt, cũng không oai nghi mỹ thuật chút nào trong bụng có ý khinh thầm và
nói trong bụng: “Cọp dồn trấu xứ nầy làm dở quá, chưa được tinh xảo như trong
Sài Gòn? Đến chừng tôi lại gần xem kỹ, tôi hết sức kinh ngạc, vì không phải cọp
dồn trấu mà kỳ thật đó là một hòn đá cuội kinh niên hình dáng rõ ràng là một con
hổ chực mồi, và như thế đây là một vật thiên tạo kỳ quái không đâu có. Hổ đá
nầy, nghe đâu, Cố đã chọt trong Đại Nội nhà vua, Cố ưng ý từ thuở nào nên xúi
bọn nịnh nhắm mắt cho tụi nó rinh về đây, biến vườn cố làm ngự viên, và báo hại
thạch hổ thôi chầu vua về chầu Cố vấn! May thay khách ngồi bàn còn chừa cho tôi
một ghế đặc biệt, là để tôi ngồi cách Cố ba ghế khác đều có giáo sư ngồi. Cố
ngồi đầu bàn đưa lưng vào nhà, đầu kia ông viện trưởng Cao Văn Luận ngồi, mặt
ngó vô nhà. Tôi ngồi bên phải của Cố, tức ngồi bên tay trái ông viện trưởng; và
như vậy tôi ngồi ở khóm giữa, và bao nhiêu sinh viên nam và nữ, chia nhau ngồi
các ghế còn lại. Tôi sẵn đói và khát từ ban chiều nay thấy trước mặt một ly bia
lạnh mát là tôi không nhịn được, cứ việc hớp và ngà ngà lúc nào không hay? Trong
nhà dọn ra để trước mặt mỗi vị quan khách một chén lớn bánh canh tôm, thịt và
cua. Tôi sớn sác lấy muỗng múc một muỗng đầy đưa vào miệng, nhưng mùi tanh của
tôm không mấy được tươi và mùi bánh canh nửa lạnh nửa nong nóng bắt tôi rùng
mình, muốn ói ra. Tôi cúi gầm đầu xuống bên tay phải, định lén nhổ xuống đất
giống gì nhờn nhờn ngậm lo trong miệng, bỗng tôi đánh thót giựt mình vì sát bên
tôi có một con chó bẹt-rê a-lơ-măng (chó ngao Đức) to lớn, lưng đen hông vàng,
cặp mắt sáng quắc, le lưỡi thè lè canh tôi nãy giờ. Tôi lật đật day đầu qua tay
trái, cũng định nhả phứt cái gì đang ngậm xuống đất, nhưng chưa kịp nhả thì tôi
thấy một con chó danois ngồi chồm hổm cách tôi không xa, và con chó nầy đầu chần
vần trông còn dữ tợn bằng mấy con bẹt-rê kia nữa. Nguy quá tôi không còn dám
nhúc nhích cụ cựa gì được. Triết lý thầy Tàu đã dạy, phải biết “tiên bảo kỳ
thân”. Thôi thì, nay nhổ bên ni không được mà nhổ bên tê cũng không xong, bên
nào cũng có tài cẩu (đại cẩu) chực hờ ra tay, không nhổ ra được thì chỉ còn một
cách an toàn hơn cả là đừng cần biết vật kia tanh hôi đến bực nào và cứ nhắm mắt
thủ tiêu nó vào bao tử! Đó là thượng sách! Nếu ực một cái chưa trôi, thì rán ực
hai ba cái, chừng nào thứ kia nằm trong bụng thì tức là tai qua nạn khỏi, chớ
lúc ấy còn kén lừa còn chê tanh chê hôi, người ngoài biết được thì e khốn khó
đến mình! Triết lý là đó! Ngẫm nghĩ tới đó, tôi buông cái muỗng bỏ mứa tô bánh
canh và chụp lẹ ly bia thứ nhì, nuốt ực ực một hơi cho sạch miệng. Tôi đang bực
mình, bỗng nghe một nữ sinh mời tôi xơi hột vịt lộn:
- Thầy ơi thầy, hột vịt lộn úp mề, ngon quá, thầy! Mời thầy xơi với chúng con?
- Hứ! - tôi trả lời - Ai đời ra đây mà ăn hột vịt lộn bao giờ? Muốn ăn hãy đợi
về trong mình mà ăn. Trong Chợ Lớn bán rẻ rề, lại thêm được ở tại nhà, dẫu có
chột bụng phá bụng thì cũng ít bần tiện như ở đây. Tuy vậy, lúc ấy tôi đã say
nên không giữ lời và nói tiếp, nếu cháu ăn không hết thì cứ dời mấy đĩa hột vịt
lại gần đây thầy thủ tiêu cho mà xem!
Lời nói là lời nói chơi, pha lửng với mấy cháu nữ sinh, không dè lọt vào tai ông
cố vấn. Ông nghe được, nói tỉnh bơ: “Ăn hết cho về ăn còn ỏ lại!”. Thế là kẹt!
Ai biểu? Tôi ngồi làm tỉnh, nhưng trong bụng đánh lô tô từng hồi. Tôi phải nói
nhỏ năn nỉ các cô nữ sinh, tội nghiệp thầy, lén dời mấy đĩa hột vịt ra xa, không
thì thầy sẽ tử trận hôm nay tại Huế.
Tôi đang ngồi, trong ruột bào chọt vì hai ly bia uống khi bụng trống, tôi liếc
thấy mấy đĩa nem ngon lành sắp bên cạnh, tôi vội gắp một chiếc cho vào mồm nhai
trệu trạo, bỗng nghe dường như nem nầy khác lạ, sao lại nong nóng.
- Thưa ông, tôi hỏi nhỏ viện trưởng, nem ở đây như vầy hay sao? Tại sao nem lại
ấm ấm nóng nóng như vầy?
- À, nem Huế thường người ta phải để cũ thì mới dai giòn, viện trưởng Luận đáp.
Nay nem nầy chưa kịp cũ, còn mới quá. Muốn cho nó cũ đi, phải luộc sơ nên nóng.
Bỗng tôi thấy một chàng trai vạm vỡ ra đứng hầu cạnh ông Cố: người nầy mặc bộ âu
phục kiểu sọt (short), áo ngắn tay, quần cụt trên gối, để lộ hai nắp tay gân
guốc hai vế đùi thịt no tròn cứng rắn, lạ nhứt là khuôn mặt người nầy vuông
vuông, xương cằm lớn, chân mày liên mi, dưới cằm tuy cạo nhẵn nhưng còn ló râu
mới mọc xanh xanh bó hàm giáp mí, chạy từ quai hàm nầy liền qua mí hàm kia, nhìn
lâu quả không phải người Việt chính cống. Sẵn ông viện trưởng nãy giờ tỏ ra có
cảm tình với mình, nên tôi đánh bạo hỏi nhỏ ông một câu tiếng Pháp:
- Thưa, hết thảy người ở Huế đều một típ như người nầy hả?
- Không! - Ông đáp nhỏ - Đó là một tên Nhựt!
- Thưa, nếu là Nhựt, sao lại ở trong nhà nầy?
- Vâng, đó là một tên hộ vệ riêng của Cố vấn. Ông dùng tiếng “gác-đờ-co” (garde
corps).
Tôi nhìn kỹ lại một lần nữa, quả thấy anh nầy bộ tịch vạm vỡ, xứng đáng là một
vệ sĩ đủ sức chống đỡ cho một người sẵn tánh sợ ám sát như Cố Trầu. Kế đó, tôi
nghe tiếng ông dõng dạc hô to lên như trên sân khấu hát bội:
- Trẻ tớ! Đem trầu cho ta!
Tôi nghe tiếng dạ rân và tức thì anh hộ vệ Nhựt ban nãy chạy vô nhà trong bưng
ra một ô trầu, hai tay dâng lên Cố một cách rất lễ phép, và rất có điệu bộ. Cố
thò tay lấy ra một lá trầu, vừa têm vừa cuốn lại gọn gàng, bỏ vào miệng nhai bỏm
bẻm rất thành thạo như người quen ăn trầu xỉa thuốc theo lối xưa. Bỗng chút có
một anh hộ vệ khác cũng bặm trợn như anh hộ vệ Nhựt nãy giờ, bưng từ trong nhà
ra một cái ống phóng thau, chùi bóng thấy mặt, dâng lên cho Cố nhổ trầu. Dâng
rồi đứng hầu, uy nghiêm như đứa tớ trung thành thuở vua chúa còn trị vì. Bất
giác tôi suy nghĩ thầm: “Mẽ? Lạ quá? Lão nầy là ai? Đực rựa hay bán nam bán nữ,
tức là lại cái? Mà lại cái sao được, vì vừa rồi có người nói với mình, lão có
tánh ưa ăn vụng, thỉnh thoảng lén lút lão ưa mượn vợ đám nịnh thần chầu rìa. Mỗi
lần có mụ nào đến nhà trêu bẹo, dâng cơm sát giường, lão bất dung tha “đá chẳng
theo!” Nghe nói tánh lão không thích con gái tân, thiếu chi người muốn gả con
cho lão, còn nheo nhẻo mà lão không ưng, dẫu tiên sa phụng lộn, lão cũng không
đàng, lão chỉ khoái mượn xài đỡ đàn bà của bọn nịnh thần, vừa tiện lợi khỏi tốn
tiền nuôi cơm, vừa là “đất có cày rồi” dễ khai phá! Kiếp trước lão là chim cu,
hay tu hú, thích đẻ trứng cho chim khác ấp. Ổ sẵn! Nhưng nghe đâu vỏ quít dày,
có móng tay nhọn! Bọn quỷ cái cũng khôn không vừa, được nằm với Cậu thì tha hồ
mượn tiền cậu làm vốn, triệu nầy qua triệu kia, (nhưng đó là việc khác). Nghe
nói lão con đùm con đề với mụ Luyến. Nhưng tại sao đàn ông đực rựa gì mà tay đeo
vòng vàng, thêm xức dầu thơm có mùi thầy Ba Chà, lại biết nhai trầu xỉa thuốc,
thật là lạ! Tôi trông mau mãn tiệc về sớm cho khỏe, nào ngờ đại hoạ sắp đến mà
không hay. Bỗng không, Hoạch lão giáo sư chưa vợ, ngủ chung hổm rày một phòng
với Thẩm và mình, có lẽ lão oán mình dám cười khi Cố dạy “cọp ăn cơm”, nên gây
chuyện:
- Thưa Cố vấn, đây là cụ Sển, làm quản thủ Viện bảo tàng ở Sài Gòn. Cụ rất sành
về đồ cổ. Như Cố vấn có cần dùng hỏi điều gì thì sẵn sàng đây xin Cố vấn hỏi cho
chúng tôi nghe với cho vui.
- Được lắm! - Cố đáp - Trẻ tớ! Đâu nà, vô khênh cái khuông tiền cổ ra đây cho ta
nào.
Tôi ngồi chết điếng mà không biết làm sao thoát, vì mình dốt, chữ không đầy lá
mít, làm sao đọc chữ trên các tiền cổ cho rành, nói bậy anh em ở đây cười chịu
sao nổi. Cũng may, có cô hồn độ mạng. Khi khuông tiền được đưa ra, tôi làm gan
bước tới xem, trong lòng mừng khấp khởi, vì đã tìm được lối thoát. Quá trên
khuông, tiền sắp không có thứ lớp, thay vì sắp theo niên hiệu các đời vua lại
sấp theo cỡ lớn nhỏ, thành thử tuy xem đẹp mắt nhưng lộn xộn năm trước năm sau.
Tôi bình tĩnh nói:
- Thưa Cố vấn, khuông nầy có nhiều đồng có giá trị lắm. Tiếc một chút là người
sắp tiền chưa rành về sử học, nên sắp chưa được đúng chỗ. Tường nên cho gỡ ra và
sắp lại cho có thứ tự thì hay hơn nhiều.
Ngờ đâu nói làm vậy, là tôi tự chôn sống lấy tôi. Cố vấn nhổ cổ trầu và hỏi:
- Sao vậy?
- Vì đây, thưa Cố vấn, đồng tiền nầy - Vừa nói tôi vừa lấy tay chỉ lên khuông
tiền - đồng tiền nầy niên hiệu đề Thiệu Trị (1841- 1847) lại nhè sắp lên trên
tiền nầy, niên hiệu Minh Mạng (1820-1840). Trái lại, tiền nầy, hiệu Tự Đức
(1847-1883) lại sấp trên đồng Gia Long (1802- 1819), con đứng trước cha, cháu
trước cố nội, kỳ quá.
Đến đây, giáo sư Hoạch, có lẽ chưa hết hận nên chưa chịu buông tha tôi, Hoạch
hỏi tiếp:
- Nãy giờ cụ Sển cắt nghĩa nghe thông quá. Tưởng Cố vấn nên cầm cụ ở lại đây vài
ngày, sắp đặt bộ tiền cho có thứ tự rồi sẽ về. Cụ Sển bằng lòng ở lại giúp Cố
vấn chứ?
- Thưa Cố vấn - tôi làm tỉnh đáp - đó là lời ông bạn giáo sư muốn nói chơi vậy
thôi. Tôi mà chữ nghĩa bao nhiêu. Việc ở lại Huế sấp tiền là việc mọn, tôi rất
vui lòng ở lại nếu Cố vấn cần dùng. Nhưng làm như vậy có khác nào ở Cố đô nầy
hết nhơn tài, hết người lỗi lạc hơn tôi hay sao? Có lý nào.
Quả thật, câu nói êm xuôi chạm ngay lòng tự ái của Cố. Ông nói lớn:
- Thôi được! Tôi không cần người nào ở lại cả. Ở Huế nầy thiếu chi người hay
giỏi. Dẹp tiền vô bây!
Thế là tôi thoát nạn. Hú hồn! Câu chuyện đến đây bắt đầu thấy nguôi, người nào
cũng muốn rút lui. Ông trưởng đoàn T.B.L ra dấu hiệu. Một cô nữ sinh, gốc miền
Nam, vừa xinh vừa bặt thiệp nhứt trong đoàn, đứng dậy lễ phép nói mấy câu vừa
gọn vừa đầy đủ trước cảm tạ lòng chiếu cố của Cố vấn, nhờ đó phái đoàn hưởng
được mấy ngày vui chơi học hỏi rất nhiều về Huế đô, sau rốt vừa từ giã để mai
nầy lên đường trở về Sài Gòn. Cả bàn tiệc khi ấy đều đứng dậy và tựu lại gần Cố
vấn để nghe ban huấn từ. Nhưng tôi nào có nghe được gì ngoài mấy tiếng Cố đô, Cố
đô, lặp đi lặp lại không biết đến lần thử mấy. Ông nói không đầu không đuôi rời
rạc như bã trầu ông đang nhai, nhưng thật tình, lúc ấy ông tỏ ra rất hảo tâm, vì
hứa hẹn phen sau, nếu chúng tôi ra Huế đô, sẽ được dùng xe nhà đi đó đi đây,
khỏi nạn “u mê” vì ngồi trên sạp chiếc xe mười bánh. Một lần nữa, và đây là lần
chót, chúng tôi bắt tay từ giã Cố vấn, bàn tay mềm mại tốt phúc của một người có
một thuở làm lãnh chúa ngoài nầy, hét ra lửa, địt ra khói. Anh em không giận
lâu, tôi và Hoạch làm lành, ngủ sớm để mai lên đường về xứ.
Ngày 7 tháng 4 - Sáng bốn giờ đã thức. Năm giờ rưỡi, xe mười bánh nhà binh đến
rước, muốn u mê cho u mê luôn. Cũng một lần nầy rồi về đến nhà. Xe cây, không
nệm, mỗi lần đường xấu xe dằn, ngó mặt các cô nhứt là bà L., tội nghiệp và quên
đau. Lót mấy cái khăn lông lau mặt cũng không thấm tháp. Xe leo lên đỉnh đèo Hải
Vân, ngừng lại dòm trời, mây, nước. Lòng thấy lâng lâng ngặt nỗi không biết làm
thi. Xe đến Đà Nẵng, trời còn sớm chán.
Trước vào xem Viện bảo tàng đồ cổ tích Chiêm Thành (musée parmentier), rồi lên
xe dạo khắp Ngũ Hành Sơn, trở lại Đà Nẵng dùng cơm Tây nơi một tiệm Hải Nam rất
vui và ngon miệng. Mười bốn giờ rưỡi, ra phi trường, bay được nửa giờ, máy bay
bị gió hút lọt vào một lỗ giữa trời thiếu không khí gọi là trou d air, đang bay
bỗng rơi tọt xuống thật thấp, tưởng đà bỏ mạng không còn thấy mặt vợ con. Cánh
quạt vẫn quay mà máy cứ rơi, vì thiếu gió. Nào bùn rền lật tốc, nào kiếng đen
đeo mắt, nào nón cát hai lão linh mục luôn và người bị hốt lên rồi quăng mạnh
xuống nền tàu. May sao máy bay kềm lại vững, và bay tiếp tục, nhưng phải một
phen lên ruột. Mười sáu giờ rưỡi, đáp xuống sân bay Tân Sơn Nhứt.
Về đến nhà, không lo cho thân, lật đật lấy mấy món cổ ngoạn ra xem, mừng quá,
không có món nào hầy hấn. Có mấy chiếc nem mỏng như lá lúa và mấy gói mè xửng
làm quà cho mẹ con nó mừng. Chuyện ông Cẩn, gói kín, để hôm nay mới thuật
(1968). Tuy đó là câu chuyện khảo, như món thịt nguội, nhưng hâm lại vẫn nóng.
Năm nay viết lại nữa, cũng còn được ăn, và thì giờ qua mau quá.
“Thuật một chuyện đi săn đồ cổ Huế” đã đăng lần đầu trong Bách Khoa số 275
(15-6-1968) và số 276 (1-7-1968), cũng như bài “Nghiên mực Tức Mặc Hầu của vua
Tự Đức” (Bách Khoa 290 -291 số xuân Kỷ dậu 1969) và cũng như bài “Chuyện bảy cây
ngọc Như Ý tại Viện bảo tàng Đài Bắc (Bách Khoa số 292 ngày 1-3 -1969) tôi đã
viết lại các bài nầy trong ba tập “Khảo về đồ sứ men lam Huế”, nên nay xin miễn
chép lại trong tập Hồi ký nầy. Rủi cho ba tập nói trên, tôi viết xong từ năm
1972 nhưng không có người chịu xuất bản. Sau tôi xin được Bộ Giáo dục ưng xuất
bản (Nghị định số 223/VHGDTN/VH/KT/NĐ ngày 25-7-1974, tiền nhuận bút 250.000
đồng tôi đã lãnh và ăn tiêu rồi; nhưng về xuất bản cứ diên trì mãi, đầu năm
1975, ba tập bản thảo chạy đến cơ quan Văn hoá và Trung tâm Học liệu (số 240
đường Trần Bình Trọng) rồi kẹt luôn ở đây luôn về gần 200 bức ảnh tài liệu cho
đến ngày được giải phóng. Tôi không lãnh ra và vái được thấy xuất bản trước khi
tôi lìa đời.
Ngày 21-5-1975
Vương Hồng Sển
24
Viện Bảo Tàng -
Ông
Diệm Là Người Thông Ngôn
Người quân sĩ, khi ra trận, có khi thắng khi bại. Thành công mới là đáng kể.
Người công chức trong chế độ đã qua, nhục vinh lẫn lộn, và không nên quơ đũa cả
nắm. Có cái cũ mới có cái mới, vinh là giữ cho đến già được hai chữ “liêm”
“cần”; nhục là lén ăn của đút, làm giàu ngang xương, dẫu không ai biết, còn có
lương tâm cấn rứt. Công chức ngày xưa, nay nổi mai chìm, nay thơ thới vinh vang,
ăn trên ngồi trốc, chẳng may tham nhũng bị bắt tại trận, mất chức ngồi tù, kẻ
nào khéo tu, ăn chắc mặc dày là nổi, không khéo tu, thì chìm luôn trong biển ô
nhục mạt kiếp cùn căn. Công chức không nên khinh, và đáng thương hơn là đáng
ghét.
Làm công chức lớp xưa, khi giữ tròn được bổn phận, gẫm có chỗ sướng: tuy lương
ít ỏi, nhưng vẫn có đều đều, nếu biết liệu cơm gắp mắm, thì khỏi lo như bác nhà
nông, nai lưng kệch dầm sương dang nắng mà còn lo hạn hán lụt lội nhiều bề; và
vẫn sướng nhiều hơn, chú thương gia, mỗi khi tính sai một con toán hay lầm một
chuyến bổ hàng, là có thể tán gia bại sản. Người công chức ngày xưa, sống ở giữa
chốn thị thành, khi trẩy Bắc ra làm ở Hà Nội, dinh toàn quyền, khi vào Nam tùng
sự nơi dinh thống đốc, nếu có lịnh sai xuống tận Cà Mau thì cũng ở chợ làm nơi
dinh quận hay toà bố, không sợ muỗi mòng đỉa vắt, và hưởng đủ mọi thứ phong lưu
đời trước, tiệc tùng ăn nhậu, và luôn luôn làm việc nơi bàn giấy, có quạt máy
mùa hè trong Nam, và có lò hơ mùa giá rét ngoài Bắc, thương gia hạng trung và
điền chủ cỡ nhỏ, làm sao sánh bằng anh công chức cỡ lương bảy tám chục đến một
trăm đồng mỗi tháng. Không có cảnh “lặn lội eo sèo” như bà Tú năm xưa nuôi chồng
cực khổ, và vẫn ung dung với cảnh “tối rượu sâm banh, sáng sữa bò”, nên có nhiều
người chỉ trích. Tôi tả oán mấy câu, rao Nam đôi chặp để vào để thuật chuyện hôm
nay, tuy vẫn biết “chuyện thằng tôi là đáng ghét” (le moi est haissable).
Tôi hai lần đã “đụng ông Diệm”. Ngày nay nhắc lại ông, nói rằng “tiếc” thì sẽ có
người vọt miệng chửi: “tôi phe Tổng Diệm”, bằng nói “ghét” thì thú thật ông
không có làm gì cho tôi có ác cảm, và nên ghét là “thằng đã bỏ chạy” ôm mớ tiền
vơ vét cạn kho, bay qua Đài Loan, tên ấy tội đáng chết bằng mười bằng trăm.
(Nhưng thiên bất dung gian, chuyện còn dài, hạ hồi phân giải).
Nay xin nhắc chuyện cũ về ông Tổng Diệm. Còn ai hách hơn ông, vào khoảng năm
1960? Thời thế đẩy đưa, ông lên như diều gặp gió. Quyền uy suất sá, bạo lực bao
trùm từ vĩ tuyến 17 đến tận mũi Cà Mau. Tổng thống đầu tiên của Việt Nam cộng
hoà! Câu “hét ra lửa”.., nơi đây nên dùng một nửa, dùng trọn câu, e ông đỏ mặt!
Ấy thế mà bỗng nhiên, một hôm ông làm thông ngôn cho thằng thơ ký quèn ăn lương
công nhựt là tôi, vì vậy cho nên tôi đã hạ câu “làm công chức có khi lại sướng
hơn ông Tổng thống!”. Câu chuyện đầu đuôi như sau, xin thong thả để tôi tường
tận:
Ngày 17-12-1960, Tổng thống Diệm đón tiếp một ông thượng khách Tàu từ Trung Hoa
hải đảo trẩy sang. Hai người vốn quen biết nhau từ buổi ông Ngô xách va li lưu
vong thiên địa không nhà. Nay vị thượng khách của ông từ ngàn dặm bay qua đất
Sài Gòn để mục kích tận mắt cảnh người vong khách không đất cắm dùi nay bỗng
nhiên “bì với vua tuy chưa dám xưa “trẫm”, và cả hai đều rạng mặt.
Ông Tổng nhà tôi, bụng phệ, ôm cái thùng nước lèo “hoài bão quốc gia”.
Ông thượng khách, trái hẳn, mình gầy vóc khô, nhưng thanh tân mỹ mạo.
Cắc cớ thay con Tạo, là hai người bất đồng ngôn ngữ, và cây cầu nối tiếp đôi bên
là một tuỳ giá quan cao lớn đẫy đà, mỗi lần chủ khách có dịp trao đổi ý kiến,
ông nhà tôi nói tiếng Pháp, ông khách sử dụng rặt giọng Bắc Kinh, và cây cầu
“thông dịch” phải nghe tiếng Tây, dịch lại tiếng Tàu, giọng Quan thoại, như vậy
chủ và khách mới hiểu được nhau, tôi ở giữa bắt buộc làm nhân chứng bất đắc dĩ,
và phải nhìn nhận thuở giờ tôi chưa gặp một ông Ba Tàu nào dùng tiếng Pháp đúng
giọng Ba-ri-diên (Parisien) và đúng văn phạm như vị tướng quân thòn-xán (Dường
sơn) nầy. (Không biết có phải đó là ông Hồ Liên, sau làm đại sứ bên này chăng?).
Còn ai không biết tính ông Diệm, hễ có dịp thì phô trương thanh thế đến tột
cùng, cốt cách thượng thơ cũ triều đình Huế, chưa gột sạch: thôi thì tiền hô hậu
ủng, nhà có bao nhiêu sai nha nô dịch, ông dắt hết ra đường: đằng đằng sát khí,
đứa chó lửa giật lưng, đứa súng sáu treo đùi, mô tô phạch phạch chạy trước, ô tô
bóng loáng theo sau, nghe đồn xe nầy ngồi trong không sợ bị ám sát vì kính che
gió đạn bắn không lủng, và bánh lốp ổ ong, dẫu nổ không xẹp v.v...
Hôm ấy ông Diệm đưa ông khách đến viếng thảo cầm viên là một nơi thắng cảnh ông
ưng ý nhứt trên đất Sài Gòn nầy. Nực cười tuy ông ưng ý, mà có nhiều người không
biết ý ông, nên đã làm cho ông nhiều lần bực tức. Nguyên trước cửa vườn thảo
cầm, ngay sân tiền của Viện bảo tàng, từ xưa để lại có trồng hai hàng cây “dái
ngựa”, tên gọi chướng tai làm vây vì tới mùa trổ trái, trái vẫn tròn tròn mốc
mốc y như hai viên hạ đạn của ngựa không khác.
Một hôm ông vào vườn chơi, hỏi tên, ông quản thủ thảo cầm viên tình thật nói
ngay, ông đỏ mặt quở rân “tên không thanh” chút nào. Ông quản thủ sợ quá, hội
nhân viên chuyên môn và đề nghị đổi lên mới là cây “nhạc ngựa” (nay còn bảng
treo), nhưng quên rằng đã xỏ ông Tổng nhà tôi rất nặng, vì bao giờ nhạc ngựa lại
treo lủng lẳng dưới đì? Cũng như trong vườn, hoa thơm thú là không thiếu, có cả
chim hạc, chim séo biết nhảy múa theo nhạc điệu du dương, nhưng bộ hạ ông đã xỏ
ông nữa, khi dâng lên ông một con “bạch tượng” báo điềm lành, mà con tượng bạch
nầy da mốc mốc như đau ghẻ lác chớ không bạch chút nào. Và cũng như ở tận mút
vườn, gần sở Ba Son, ông ngoại giao khéo lắm mới đổi được với Phi châu hai con
giả nhơn, vóc lớn bằng trẻ lên mười, nhưng cớ chi mỗi lần ông mon men đến gần
chuồng để viếng thì vẫn làm trò khỉ tục tĩu trước mặt. Nhưng nói sao hết, ông có
tánh bẽn lẽn như gái muốn chồng, từ ngày ông ngự trị Miền Nam, ông nghe đầy lỗ
tai những danh từ không thanh tỷ dụ như “dây thúi địt” và cây “cặc chó”, v.v.
Ông cố tâm đổi ra cho thanh: Blao làm Bảo Lộc, Djiring làm Dĩ Linh, nhưng bộ hạ
ông từng đổi “dây thúi địt” làm “dây mơ tam thể” (vì lá nó xanh tím nhiều màu),
nhưng đến danh từ “cây cặc chó”, nhân viên đặc trách ăn đã hao mòn mấy quỹ ngân
sách tìm chưa ra danh từ thay thế, thì ông đã hồn quy dị lộ.
Nhắc lại, hôm 17-12-1960, ông bổn thân đưa khách quý dạo chơi viện thảo cầm, hai
người dạo khắp đó đây mà trời còn sớm quá chưa tới giờ về dinh ngự thiện, ông
bỗng nảy ý cùng với khách đến xem một lần cho biết Viện bảo tàng Sài Gòn, mà ông
chưa đặt chân đến lần nào. Khổ nỗi ông không cho tôi hay trước mới chết cha một
cửa tứ! Thú thật tôi không phải là một nhân viên gương mẫu, và sở trường của
tôi, cũng như của bao công chức khác đồng thời là vô làm trễ, đi về sớm, miễn
công việc trôi chạy, để bù trừ những lúc làm thêm giờ bất chấp sớm trưa. Cũng
may cho tôi bữa đó, dường như linh ứng mách bảo nên vào giờ ấy, hơn mười một giờ
rồi, mà tôi vẫn chưa ra về. Như mọi ngày, tôi ăn mặc rất xoàng xĩnh, một bộ
xá-xẩu cụt tay bốn túi, và đang cắm cúi viết viết trong văn phòng. Bỗng cửa
phòng mở toát nghe một cái rốt. Ông tổng giám đốc cảnh sát, ông Nguyễn Văn Là
bằng xương bằng thịt, đứng tần ngần trước mặt, dõng dạc hô to như giữa trận
tiền: “Có Tổng thống viếng Viện bảo tàng! Mời giám đốc theo tôi ra rước!”
Thoạt nghe mấy tiếng, tôi quăng viết, ba chân bốn cẳng, vội chạy một hơi bám sát
gót ông Là, hồn vía cũng chạy theo. Vả lại Viện bảo tàng vốn rộng thênh thang
như nhà lồng chợ, hai tôi bắt từ văn phòng chạy một mạch đến chỗ ông Tổng thống
và các quan khách đứng chờ thì đã gần hụt hơi. Lúc ấy đồng hồ điểm mười một giờ
rưỡi trưa. Phái đoàn hiện đã qua khỏi cửa đại môn, lướt qua khỏi phòng mỹ thuật
Chàm, và đang đứng ngắm nghía chuyện trò nơi phòng mỹ thuật Cơ-me. Ông Diệm vốn
có tánh khó, cấm gọi ông bằng Cụ bằng ông, và chỉ ưng gọi ông trống trơ “Tổng
thống”. Nhớ được điều đó, tôi đứng thẳng người, ngó ngay mặt ông, cung kính thưa
một hơi không kịp thở:
- Kính thưa Tổng thống, Tổng thống đến quá đỗi thình lình, và vì không hay trước
nên tôi không kịp mặc đúng lễ, và đã không kịp ra nghinh tiếp Tổng thống tận cửa
viện như lòng mong muốn, xin Tổng thống lượng xét cho.
Nói xong câu ấy, biết rằng mình dối lòng mình vì câu nói gượng ép không tự
nhiên, tôi đứng trân nín thở, không khác anh binh nhì đứng trước ông tướng ba
bốn ngôi sao. Ông Diệm day mặt lại, nhìn tôi từ đầu chí gót, lấy cây ba-ton nhịp
nhịp vào sân gạch, tôi lúc ấy cũng trộm nhìn ông, thấy mặt ông tươi rói, hồng
hào như bao nhiêu gương mặt kẻ đắc thời ăn no ngủ kỹ, bỗng ông sầm nét mặt
lại... Cặp mắt ông dường như muốn xẹt lửa, cặp chân mày đen đậm lông dài và dày
khít, bỗng nhíu lại như báo tin một cuộc sấm sét bất ngờ, rồi bỗng tan ra như
mây bị gió tạt. Ông day lại ngó vị tân khách, ông nghĩ ngợi về câu tôi tự bào
chữa, ông không gật đầu cũng không bắt tay. Ông ngó lại tôi một lần nữa, phen
nầy từ gót chi tóc... Tôi đứng thẳng lưng chờ đổ trận lôi đình. Ông không thốt
lời nào, thì xin cho tôi suy nghĩ trộm: ông không chào, tôi không lấy làm lạ.
Trong bụng tôi xét, giữa ông và tôi, vả chăng giai cấp và quan niệm rất cách
biệt. Ông làm Tổng thống, ông nhờ. Tôi sở dĩ vô làm đây là vì vấn đề cơm áo thê
nhi, cũng không phải ăn mày của ai mà phải khúm núm. Giữa ông và tôi, xa cách
đến quăng mười lăm bã trầu chưa tới, tôi đâu có đèo bòng cái bắt tay chào. Nó có
ích lợi no béo gì cho tôi, rủi gặp tay nhớt, tay mồ hôi bịnh phong thấp lại càng
thêm gớm. Thà đừng ngoài mặt làm bộ xã giao mơn trớn, rồi lát nữa ông lên mặt
chủ, là đủ tôi cám ơn ông nhiều. Tôi đoán chừng ông nhìn thấy tôi ăn mặc quá lèn
xèn, ông lấy đó mắc cỡ hộ với ông khách thượng lân: “Nước Việt Nam tiếng rằng
giàu có, có một thằng quản thủ Viện bảo tàng quá nghèo hèn!” Hay là đã có người
“tâu” lên với ông, lên tôi là thế thế, lỡ Tàu lỡ Việt, rồi không khinh thầm? Ông
có tiếng là người thuần tuý, chuộng thích những danh từ cho thật êm tai, những
tên ngọt lịm: Chánh Thành hoặc Đình Thuần? Trung Dung? Nhưng Dung lỡ Dung, Thành
chẳng Thành, ông giận đứng trước một người có tên xấu xí. Câu tôi vừa thốt là
thành thực tạ lỗi, giọng thiết tha thẳng thắn, ông bắt tôi đợi một giây lâu. Sau
rốt, cơn chuyển mưa vừa vần vũ kế gió đánh mây bay mất, ông khệ nệ ban cho hai
chữ “Thôi được!” rồi ông lê cây gậy cù nèo và nơ cái bụng nước lèo bước tới, hai
hàng chân vịt xàng xê, họ Tạ trong tuồng San Hậu! Trong lúc ông xê dịch, sau
trước có tiền hô hậu ủng: nào cảnh sát chìm cảnh sát nổi, thám tử, mật quân,
chúng bao vây ông chật phòng; trong lúc ấy tôi là quản thủ Viện bảo tàng, đã có
mấy ông Phật Miên bằng đá chở che. Nhờ Trời Phật câu nói của tôi ban nãy làm tan
cơn sấm sét. Tôi vẫn thấy và phục ông là con người khá, nhơn chi sơ tánh bản
thiện; tự nhiên tôi có thiện cảm, càng thương ông sau nầy bị nịnh xỏ mũi mà hư
cơ đồ, đến nỗi luỵ thân, (nhưng sau nầy khi đọc công văn thấy anh em ông ẵm bao
vàng trên năm chục ký mà ngao ngán bất cứ ai, lòng tham không đáy).
Nhắc lại, hai tiếng ông ban ra “Thôi được!” đã làm cho tôi hoàn hồn, nhưng cũng
vì đó, cái tánh châm biếm cũng lót tót trở lại: chứng nào tật nấy! Tôi vừa nối
gót theo chân ông, bụng vừa suy nghĩ: “Có đời nào tôi được như hôm nay, đi đứng
gần ông chỉ cách không hơn một thước! Mẽ! Lạ nầy? Cớ sao tóc ông để quá dài,
không hớt? Ô, tội nghiệp quá, vì ông làm việc quá nhiều, đến không có thì giờ
ngồi cho thợ con nó tỉa bớt để tóc tai bùm sùm như đám hippy già. Ủa? Mà ông tuy
ăn sung mặc sướng, mà đã có vài sợi tóc bạc mọc dưới gáy đâm lún phún như râu
chú giám? Ông đáng thương thật! Thân không vợ không con, sống không đủ thì giờ
hớt tóc. Làm Tổng thống coi vậy mà cực quá, có sướng ích gì? Uý nè? Trời hỡi
trời? Ông bôn ba hải ngoại mấy năm trời, mà làm sao ai giữ được cho ông, bộ
tussor ông mặc, may kiểu áo bốn nút cổ lỗ sĩ, nhưng hàng nầy đúng là tussor đất
Nam Định nổi danh. Trời ơi, bộ đồ tussor nầy đã trỗ vàng vì đã quá lâu năm. Cổ
vai đã xùi, đúng ông là một người độc thân không ưa đàn bà, thêm thằng đầy tớ
quá lập công, không dám giặt thường sợ áo mau mục rách và vì quá o bế, ủi đi ủi
lại mãi, ủi thét đến hàng dợn sóng, ủi như vầy giáp sắt cũng tơi sợi bông chỉ,
nói gì tussor. Nếu ông hà tiện quá làm vầy, tiền của dư ông làm gì cho hết?
Nhưng nói thật, sẽ chết cha hết thảy, chớ bọn công chức chúng tôi làm gì lên
lương được với một Tổng thống quá rít róng như ông làm vầy? Tôi mãi theo sau
lưng, suy nghĩ lung tung, bỗng ông dừng bước, ngó ngay mặt tôi và chăm bằm nói
trống:
- Hãy nói liếng Việt Tôi sẽ dịch lại. Không được dùng ngay tiếng Pháp. Nhớ chứ?
Ông dặn bấy nhiêu lời, tôi dạ một liếng cụt ngủn, nhưng nhỏ nhẹ lễ phép. Trong
lòng, tôi mừng còn hơn trúng số độc đắc. Vô tình, ông đưa cán dao cho tôi nắm để
ông cầm dao phần lưỡi. Ông giành nghề thông ngôn với tôi, rồi sẽ biết. Thông
dịch tiếng Pháp thông thường đã là khó, nay ông sính tài muốn thông dịch danh từ
chuyên môn về khoa khảo cổ, tôi sẽ làm cho đổ lửa cho xem. Ông đã khoe tài, tôi
chờ dịp trác. Ông là Tổng thống, tôi chẳng qua một thơ ký quèn, ăn lương công
nhựt. Ngoài mặt tôi làm tuồng cung cung kính kính, trong thâm tâm tôi trúng tủ,
giữ phần ăn chắc như đánh bài cào, ông chín nút, tôi chộ ba Tây? Làm nơi Viện
bảo tàng suốt mười mấy năm nay, tôi đã quá cháo chan thông thuộc và biết éo le
từng món cổ vật như đồ chơi để trong túi.
Ông Tổng thống đi đến giữa phòng Cổ Cao Miên, đứng lại lấy gậy nhịp nhịp vào một
khối đá vuông và to, đầu tròn, đặt ngay trung tâm phòng nầy và hỏi trống:
- Cái chi đây?
- Thưa Tổng thống, viên đá nầy, chữ Phạn gọi linga, tiếng Việt dịch sợ khó nghe.
- Cho phép nói.
- Dạ thưa, đó là cái ngọc hành, đạo Bà-la-môn thờ dương vật làm thần tạo hoá,
sanh sanh biến biến, vũ trụ cũng là đó. Phạn tự gọi linga, Pháp giữ y cũng gọi
linga, không đổi.
Tôi vừa nói câu nầy, bỗng thấy Tổng thống đỏ mặt nhưng thản nhiên dịch lẹ:
- Đây là hòn đá thiêng của đạo Bà-la-môn, gọi linga, các người biết chứ? (Cesl
une pierre sacrée du culte brahmanique, le linga, vous le savez bien?). Rồi ông
lật đật xách gậy, lẹ làng bước qua chỗ khác. Tôi chạy theo định giới thiệu ông
đứng lại xem một tượng Phật đá ngồi buông thòng hai chân xuống đất theo điệu
ngồi Tây phương, không như các tượng Phật khác, ngồi xếp bằng theo điệu tham
thiền thường thấy, nhưng ông chưa hết đỏ mặt, giả chước không nghe và vẫn bước
tới trước, tự tìm những cổ vật lạ để ngắm xem lấy mình. Tôi thầm phục ông là
người có bản lĩnh, không phải bất cứ ai muốn dẫn dắt, “xỏ mũi” ông thế nào ông
cũng nghe, đến đây tôi giựt mình, tự xét tốt hơn là phải biết an phận, ông hỏi
gì sẽ liệu mà ứng đối, không nên láu táu mà bỏ mạng sa tràng với ông. Nãy giờ
tôi mới hiểu thâm ý của Tổng thống, sở dĩ ông bắt buộc tôi nói tiếng Việt cho
ông dịch lại tiếng Pháp là đề phòng sợ tôi nói ngay Pháp ngữ rủi có sơ hở lỡ
lời, lấy lại không kịp, và như vây là ông cố ý muốn duyệt lại những gì tôi trình
bày, liệu cái gì chính đáng ông sẽ dịch, cái gì thừa thãi có hại, ông sẽ bỏ bớt,
như vậy ông sẽ làm chủ câu chuyện và giữ được bí mật, quả ông cao thâm lắm và vì
tôi còn thấp trí nên khinh thường. Tổng thống thông qua chuyện linga là nhẫn
nhịn lắm, xong rồi nu na đi tới trước. Tôi lại có dịp so sánh và cân nhắc các
nhân vật hiện diện bữa ấy. Tôi thấy ông khách Tàu, ăn mặc tiêm tất trong một bộ
quốc phục vừa sang trọng vừa đúng đắn, mặt mày ông vừa phương phi vừa nghiêm
trang, quả ông là một nhân vật phi phàm. Nhưng tôi để ý nhứt là ông tuỳ giá
quan, ông nầy mới là một nhân vật đặc biệt. Ông mặc quân phục cấp tướng, rất vừa
vặn đúng thời trang, và có lẽ ông ở đất Pháp và học Pháp văn lâu năm lắm cho nên
ăn nói văn hoa bóng bảy giọng đúng giọng kinh thành Paris lắm; Còn ông Tổng
thống chúng tôi, thật ra tôi không dám khinh thị ông, nhưng nghe ngóng và dò xét
buổi tiếp kiến nầy, thì ông sử dụng tiếng Tây cũng không chi đặc sắc, bất quá là
bá quốc, ông nói tiếng Pháp y một kiểu với bọn xơ-krê-téc quét bu-rô như tôi,
chớ gẫm lại không hơn, và về giọng nói thì Ơ-nam Huế rặt. Hai nhà ngoại giao, kẻ
Hoa người Việt, đàm luận cùng nhau coi bộ tương đắc lắm, mà phải cần dùng đến ba
cây cầu, cầu Tàu giọng Bắc Kinh, cầu Nam giọng Sài Gòn, (còn chi hân hạnh bằng)
và cầu Tây do một ông Huê kiều nối cho liên lạc quả là một buổi tao phùng “ngàn
năm một thuở”, và càng nghĩ càng nực cười cho con Tạo khéo trớ trêu. Tôi đang
thầm nghĩ tới đó, bỗng ông Tổng thống đứng lại ngay một viên đá dài kê bên vách,
hất hàm hỏi:
- Cái gì đây?
- Thưa Tổng thống đó là đặc điểm của tinh thần đạo Phật phái Cổ Cao Miên. Hình
đá nầy chạm tích vị thần Indra biến thân hoá làm con voi lớn có ba đầu, hai đầu
tả hữu dùng vòi nắm chặt đầu rắn dữ Mãng xà vương, chạm đuôi rắn quấn chắc hai
bên đông tây đại hải, rồi dùng phép thần căng thẳng thân con rắn Khổng Lồ ấy hoá
ra sợi dây thần thông dài thiên lý, dùng đó toan tát cạn nước biển để tìm cho
được vị thuốc trường sanh bất lão, sẽ làm cho con người trắng da dài tóc sống
mãi đời đời thiên thu bất diệt. Thưa Tổng thống, Tổng thống để ý xem như viên đá
nầy chạm khấc từ thế kỷ thứ X thứ XI, thế mà linh động vô song, và người thợ đá
chế tạo, quả tài tình có một. Dưới nét chạm chỗ nầy, thưa đó là mấy con chim ăn
bám, bình sanh theo sát người mà đớp bóng bắt mồi, chim no lòng khỏi tốn công
tìm bắt, và đây, thưa Tổng thống, đây là thợ đá tạc hình những người còn mê sa
vật chất nên phải chết đuối, thân còn lặn hụp giữa khổ ải trầm luân. Như vậy bức
đá chạm tuyệt tác nầy tượng trưng xã hội chúng ta, luôn luôn vẫn có bọn ăn bám ở
nhờ, luôn luôn có người đắm đuối trong ba đào biển khổ.
Câu viết tuy dài, nhưng lúc nói, tôi nói chậm và rõ ràng từ tiếng, nói tới đâu
tôi trộm thấy mặt ông Tổng thống sáng lên, như bao nhiêu bực dọc nãy giờ đã tiêu
tan, tôi thấy ông cười cười dường như vui lên, khiến cho tôi thao thao bất tuyệt
rán diễn sát nghĩa và giữ đúng tinh thần của người thợ cổ để lại trong phiến đá
câm. Sự thật lúc ấy tôi cố đem sở trường học hỏi bấy lâu cố thuyết phục vị tân
khách Tàu và ông Tổng thống công giáo nầy rằng đạo giáo miền Nam từ nhiều đời
vẫn có truyền thống riêng và vẫn có chứa ẩn nhiều diệu thuật mà những người theo
đạo nước khác chưa khám phá được tường tận. Vừa nói tôi vừa nhìn kỹ nét mặt Tổng
thống. Tuy lúc ấy ông đang giữa thời kỳ cực thịnh, nhưng mặc dầu tôi không phải
nhà tướng gia, nhưng đầu mày cuối mắt, tôi quá thấy dường như có một cái gì đen
tối sắp phát hiện. Một, hay là ông đau gan đau thận? Hai, hay là thời vàng son
đã xuống dốc lần lần đây? Tôi tự cười thầm không phải thầy coi tướng tại sao vơ
vẩn tìm hiểu chuyện đâu đâu. Nhưng tánh tọc mạch khiến tôi nhìn kỹ quả dưới mắt
Tổng thống có một nốt ruồi “yểm luỵ” quả trong đời ông luôn luôn có sự lo buồn,
nhưng hà cớ mỗi lần chào cờ trong rạp chớp bóng, bác phó nhòm nào đã quá nịnh,
nên đã tẩy mất vết ruồi xúi quảy báo điềm nầy.
Tổng thống vui vẻ bước qua phòng Đế Thiên Đế Thích, nhưng đến đây ông khách thân
mật lấy tay chỉ một pho tượng Phật bằng gỗ cao trên ba thước dựng sát vách và
lấy mắt hỏi Tổng thống.
Ông Tổng thống lấy cây gậy nhịp nhịp dưới sàn gạch hoa, tôi biết ý bước lại gần,
ông hất hàm hỏi:
- Phật nầy bằng gỗ gì, làm đời nào?
- Thưa Tổng thống, vị Phật nầy, trước năm đảo chánh 1945 nhà học giả Malleret
đem về từ ruộng sâu làng Phong Mỹ ở Đồng Tháp Mười. Phật làm bằng gỗ mù u và có
lẽ đã có từ đời Tiền Đế Thiên Tiền Đế Thích, tức đã lâu đời lắm. Gỗ mù u, danh
từ chuyên môn La tinh gọi gỗ “Calophyllum inophyllum”.
- Gỗ chi? - Tổng thống cắt ngang lời tôi nói, vì có lẽ ông không biết nên dịch
ra làm sao danh từ lạ tai “Calophyllum inophyllum” nầy.
- Dạ thưa, gỗ mù u. - Và để ông dễ hiểu, tôi lật đật nói trớ lại - Thứ gỗ nầy, ở
miền Nam mọc nhiều, quả nó tròn làm gáo múc dầu, mủ nó xức ghẻ mau lành lắm.
- Đây là Phật bằng gỗ, - Tổng thống nương lời tôi nói mà dịch lại - Phật bằng gỗ
tìm gặp ở Đồng Tháp Mười, xưa gần ngàn năm làm bằng gỗ mù u, thứ gỗ nầy mủ nó
dùng trị ghẻ chốc. (Voici un bouddha en bois, trouvé au Tháp Mười, de près de
mille ans d âge, fait dans un bois qui s appelle “mù-u”, et dont la résine sert
à guérir la gale, là?)
Tổng thống dịch và đưa mắt liếc tôi, tựa hồ nói: “Ta dịch sao, mi không cần
biết”.
Thú thật tôi đâu dám bất kính tìm hiểu Tổng thống dịch sát nghĩa hay dịch không
sát nghĩa. Tôi cần ông đừng la lối rầy rà tôi là quý, và tôi nói thầm trong
bụng: “Ai nói sao, theo mình “ông già nầy” quả là người khá xài được, có thiện
chí, nói phải biết nghe, hiềm vì lũ nịnh sàm ngôn quá nhiều nên hư việc”.
Tổng thống và vị tân khách bước qua phòng mỹ thuật Trung Hoa, đến đây tôi mừng
được thoát nạn như kẻ tắm sông sắp lội vào bờ, vì đối với một ông Tàu và một ông
cựu quan Thượng triều đình Huế, trước mỹ thuật Trung Hoa, tôi nào dám “Ban môn
lộng phủ”. Qua tới phòng mỹ thuật Việt Nam, hai ông dừng lại trước một tủ kính,
trong có chưng một bức bình phong Pháp lam (cloisonné) xinh xinh, đế làm bằng gỗ
trắc quý trổ ra hình chữ “Vương” có vân mây bao trùm, xem khéo lắm.
- Cái ni là cái chi? - Tổng thống hỏi.
- Dạ thưa, đây là bức bình phong Pháp lam của vua Minh Mạng, có bài thi ngự chế.
Ông chống gậy cúi xuống xem, hai người cùng đọc bài thi chữ Hán. Bỗng ông Tổng
thống dõng dạc nói:
- Mấy người biết chứ! Các vị tiên vương nước Đại Nam đều là thi sĩ. Đây là một
bài ngự chế của ngài Minh Mạng đó. (Vous savez que les anciens Empereurs du Đại
Nam étaient tous des poètes. Voici une poésie écrite de la min de lempereur Minh
Mạng.Voi là).
Cắt nghĩa xong, Tổng thống đưa khách qua phòng mỹ thuật Ốc Eo, không ngó vật
nào, và ông bước đi thoăn thoắt, không cần biết đến ai, tay xách gậy ngoe nguẩy
bước ra Đại môn, bọn tuỳ tùng ráp lại tiền hô hậu ủng và tôi thoát nạn. Vị tân
khách Tàu nán lại day qua tôi, nói một tràng tiếng Quan thoại, trong xâu dài dọc
tôi chỉ hiểu được hai tiếng “tố chè” (đa tạ). Ông tướng quân to lớn xiết tay từ
giã, niềm nở như bạn quen từ thuở nào.
Tôi tiễn ra cửa, đứng nhìn, khỏe trong lòng như có uống sâm nhung. Phái đoàn lên
xe đi mất dạng, tôi còn tần ngần đứng đó suy nghĩ viễn vông. Nhớ lại lúc chín
giờ ban mai, có lão Ngô Quang Huy lại kéo đi ăn hủ tíu cá khu Canh Nông, nếu ăn
rồi ăn quen như mọi ngày, cút về nhà luôn, không trở vô sớ để tiếp Tổng thống
thì ắt là mất chức. Thiệt là phước ông phước cha để lại? Ủa? Mà sao ông Tổng
thống ra về, không bắt tay mà cũng không một liếc mắt chào? Á! Mà thôi! Hơi nào
phiền trách. Tội nghiệp bây giờ ông đã chết, nhớ ông, vừa có người hù, ông đã bỏ
ngôi chạy mất. Chớ chi lão kia sớm biết thân như ông, thì đỡ khổ cho dân biết
mấy?
Trở vô lấy xe đạp, đạp về nhà, kim đồng hồ chỉ đúng mười hai giờ rưỡi.
Vừa đạp xe, vừa suy nghĩ: “Cũng chưa phải là thần thánh gì. Vậy mà có đứa vào
chầu, khi trở ra, đi thụt lùi làm chi đến bể chậu quý? Lại có thằng nào đó, nịnh
thôi là nịnh, bỏ cả cha mẹ ông bà, để xin rửa tội nhập đạo Thiên chúa, rốt cuộc
rồi cũng bị cho ra rìa. Còn mình, biết chừng nào được thảnh thơi, khỏi kiếp làm
công chức tạm, khỏi chào cờ, khỏi chầu hầu phiền phức? Lại khỏi mỗi thứ hai hát
bài “suy tôn”. Ông không nắm tay tôi, mà ông tự làm thông ngôn cho tôi. Còn
khoái gì bằng, rán nhớ để viết bài trước khi đậy nắp quan”.
Cuối tháng chạp, y như lệ, xin điện thoại lên phủ Tổng thống, muốn biết quý danh
hai vị tân khách viếng Viện bảo tàng để làm tờ phúc trình hằng tháng, trên phủ
trả lời “khỏi hài tên làm gì”.
25
Ông Diệm Lựa Mua Đồ Sứ Cổ
Ngày 15-1-1963 (ngày thứ ba 15 tháng giêng dương lịch, là ngày 20 tháng chạp
Nhâm Dần). Vào lúc tám giờ sáng, tôi đang ngồi làm việc trong văn phòng Viện bảo
tàng thì có chuông điện thoại reo. Nơi đầu dây, ông Giá, chủ sự phòng vật liệu
phủ Tống thống gọi tôi và mời lên trên đó để giảo nghiệm một mớ đồ sứ cổ.
Khi tôi giáp mặt thì ông nói Tổng thống muốn biết ý kiến của tôi về những cổ vật
do Tổng thống đã lựa nơi phòng triển lãm báo chí đô thành và do hai nhà buôn
Chánh và Trọng trưng bày từ 16-12-1962 đến 12-1-1963 và hiện đã đem về để tạm
nơi tầng dưới trong phủ. Ông Giá liền đó đưa tôi vào phòng xem, khi về sở là hết
trọn buổi sáng.
Qua buổi chiều, đồng hồ chỉ mười lăm giờ thì có tiếng điện thoại gọi nữa. Chuyến
nầy, tôi lên phủ tổng thống là lần thứ hai trong một ngày, gặp lại ông Giá, ông
đưa tôi giới thiệu với chánh văn phòng là ông Võ Văn Hải. Tôi được hai người dắt
tôi lên phòng tiếp khách rằng hãy chờ khi nào Tổng thống rảnh việc, sẽ cho vào
yết kiến. Phòng nầy rất rộng, nguyên là phòng họp của hội đồng tư vấn (conseil
privé) của trào Pháp cũ, và với tôi không lạ vì trước kia tôi từng làm việc nơi
toà lâu đài nầy, thuở ông Rivoal làm thống đốc Nam Kỳ. Tôi ngồi chưa nóng ghế:
thì thấy một người sĩ quan bưng ra để trước mặt tôi một mâm gỗ, trên mâm có bày
một hộp thuốc lá 555 vừa khui (vừa mở), chưa dùng điếu nào, kế bên có để sẵn một
hộp diêm quẹt cũng mới, thêm có một tách trà thơm khói bốc ngát và một tách cà
phê sữa xem ngon mắt lắm.Vị sĩ quan ấy cúi đầu mời tôi “Xin cứ tự tiện” rồi lui
ra bỏ tôi lại bơ vơ với bao nhiêu món cám dỗ ấy. Tôi làm cao không động rớ món
nào, ngực thì nhảy thình thịch, mắt vẫn liếc, nhìn từ cái bàn cái ghế sang trọng
đến màu sơn trên vách, quả không thấy thay đổi nhiều sau cuộc đảo chánh vừa rồi
năm 1945. Quả thật không có chi nặng lòng bằng sự chờ đợi. Tôi khó chịu vì ngồi
đã lâu mà không ai nói đến mình, trong khi ấy tôi cố nhìn những vật trước mắt đã
biến thành cố tri, từ cây đinh cũ nơi chưn bàn, và thấy tiếc tiếc cho tách cà
phê, cho tách trà, ở nhà mình không có để uống, mà ở đây đành để cho nguội không
người dùng, thiệt là phí phạm. Đôi giày vẹc-ni đen mới; tôi lấy ra “khai trương”
bữa nay nhơn dịp ra mắt ông Tổng thống đã bắt đầu làm tê tê mấy đầu ngón chân,
nay khởi sự ngứa rần rần mà ở đây là chốn tôn nghiêm làm sao dám cởi giày ra để
gãi cho sướng! Chờ mãi đến mười tám giờ, ngồi nhớ tiếc cái cảnh làm việc ở Viện
bảo tàng, tuy ăn lương ít, nhưng cũng “làm vua một cõi” và cũng vì ham chút bã
vinh hoa ấy mà nay bị hành phạt như vầy.
Bỗng ông Giá mở cửa phòng bước vô nói năm điều bảy chuyện, cho hay Tổng thống
quá bận khách có lẽ không liếp được, thôi thì hãy về nhà và dặn kỹ đêm nay đừng
đĩ đâu hãy túc trực sẵn, phòng hờ Tổng thống rảnh sẽ cho xe đến rước! Nghe mà
chết được trong lòng, không lẽ kêu mình ban đêm để ngủ chung? Huống hồ gì, đêm
nay lại được lần thứ nhứt, vợ mua vé tặng xem cải lương gánh Năm Châu, diễn tại
rạp Thống Nhứt tuồng “Tây Thi gái nước Việt” mà mình ao ước muốn xem diễn lại.
Thôi thì trối kệ, cứ đi xem hát cái đã, rủi mất chức thì cũng đành, chớ không lý
bỏ vé vợ mua sẵn để bận đồ lớn ngồi nhà chờ xe Tổng thống. Tuy vậy, ngồi xem
diễn tuồng mà lòng đã thất hứng, lát lát liếc ngó chừng phía cửa rạp, chỉ sơ có
lịnh đòi.
Nhớ buổi chiều tài xế trên phủ lái xe đưa về, nay thấy ai bước vào bận áo bâu
cứng cao cổ cũng tưởng đó là bác tài xế Hiệp. Vãn hát về không ngủ được vì vẫn
hồi hộp.
Ngày 16-1-1963 - Buổi sáng đi làm, vô sự. Buổi chiều vững bụng, nên ăn quen vẫn
mặc bộ đồ “xườn xám” cho gọn. Dè đâu vừa vô sở, thì điện thoại gọi.., lật đật
đạp xe về nhà (lúc ấy nhà ở Vườn Dâu bộ Canh nông, đường Hồng Thập Tự) hối hả
thay bộ đồ lớn, trở lại Viện bảo tàng thì vừa kịp có xe lại rước đưa lên phủ.
Phen nầy, trong lúc ngồi chờ, ông Giá đưa một xấp giấy trắng và mời viết vào đó
những ý kiến của mình đối với từng món cổ vật bày trong phòng mật viện cũ. Viết
thẳng thét trong hai tiếng đồng hồ, được bảy trang chữ bút atomic xanh. Thấy
thấm mệt, nên tự thưởng một tách cà phê sữa ngon lành và nốc luôn một tách nước
trà. Không làm kiêu nữa, và dại gì của sẵn không dùng? Đúng mười tám giờ, có xe
đưa về, không quên dặn đừng ra cửa, e có lịnh đòi, nhưng trọn đêm vô sự, ngủ
bằng an.
Ngày 17-1-1963 Nghe theo lời ông Giá dặn hôm qua, nên sáng nầy vận đại phục vô
sở, ngồi chờ tới trưa không việc gì. Buổi chiều có giờ dạy nơi Đại Học văn khoa,
vừa dạy từ mười bốn giờ rưỡi, đang ngon trớn, kế có lịnh đòi. Lật đật từ giã
sinh viên xách cặp bước mau qua phủ, cũng may ở gần cùng một khu. Chưa đi bươn
bả theo ngõ tắt, lính kêu mặc lính, vừa đến kịp gặp ông Giá, ông đưa qua phủ,
đến ngay phủ nơi phòng có trưng bày cổ vật, chưa kịp mở cửa vào phòng thì có
điện thoại gọi giựt dội từ trên lầu ra chỉ thị xuống, dạy ông Giá phải đưa tôi
thẳng lên từng thượng, để yết kiến ông Tổng thống, vì ông vừa rảnh tay và hiện
chờ tôi tại văn phòng của người. Xin nhắc lại dinh Gia Long, nay Tổng thống lấy
đó làm phủ từ ngày ở “điện Toàn quyền cũ” về đây, nguyên là dinh cũ Phó Soái Nam
Kỳ và từ năm 1935 đến 1942, tôi từng làm việc ở đây, nên vốn không xa lạ đối với
tôi. Chân tôi bước theo bén gót ông Giá, mỗi lần gót giày nện mạnh lên thang gỗ
lòng thấy nao nao nhớ lại buổi thanh xuân còn ghi dấu đâu đây. Lên đến từng lầu
trên, thì phong cảnh dấu vết cũ không thay đổi chi nhiều, nền gạch bông vẫn bóng
láng như xưa, duy trên vách gạch, tấm tranh sơn dầu “cảnh vẽ cột cờ thủ ngữ và
cầu tàu tán dóc” (Pháp gọi “poinle des blagueurs”) vì có tánh cách thực dân, nên
đã bôi mất dấu, cũng như cảnh vẽ “vườn cao su” nơi sau chỗ ngồi của hai ông
Rivoal và Weber độ nào, nay cũng bị tẩy đi cho sạch vết tích chế độ Pháp cũ. Bức
vách nầy, như các bức vách khác, nay sơn dầu một màu vàng trứng gà, xem vừa sạch
vừa nhã và trang trọng tinh khiết hơn xưa. Tôi bước tới trước cửa văn phòng, dòm
vô trong thấy ông Ngô Đình Diệm, mặc bộ u-oe túc xo, ngồi chễm chệ trong một
chiếc ghế bành bọc da thật lớn và mới toanh, hai tay ông đặt ngay thẳng trên chỗ
dựa y như một tượng gỗ, còn hai mắt ông thì ngó thẳng vào cửa chỗ tôi đang đứng.
Tôi thủ lễ, đứng thẳng người, đầu cúi miệng thưa lễ phép “Kính chào Tổng thống”.
Ông gật đầu, xem bộ hiền lành, tôi nghe ông thốt hai tiếng “Mời ngồi” mà không
nghe rõ mời ai, cụ, ông hay là mấy. Tôi lúc ấy vẫn cứ đứng, y như điệu chàng rể
tiếp xúc lần đầu tiên với nhà gái. Kế tôi nghe ông ban thêm ba tiếng “Ngồi đi
mà!” nghe êm ái hơn hai tiếng “mời ngồi” ban nãy. Rồi tôi bước tới, đặt bàn toạ
vào ghế, nhưng chỉ ngồi ghé nơi bìa cạnh, y một kiểu với cách mấy chục năm xưa
tôi ra mắt nhạc gia tôi khi đi xem mất vợ. Cái ghế của tôi ngồi, vẫn đặt mé bên
tả của ghế ông và vẫn giống y cái ghế đặt bên hữu, hai ghế nầy thấy đều cũ kỹ,
đã “xập kỷ nình” (cũ thập dư niên); vì tôi ngồi ghé nên thấy dường như ngồi trên
khúc củi, vừa ê vừa thốn, thật không êm ái đỡ mỏi chút nào. Tôi vừa an toạ, kế
có điện thoại reo. Tổng thống với tay chụp ống nghe, và trong khi ông bận lo trả
lời, tôi thừa dịp lấy mắt quan sát kỹ vuông phòng nầy mà những năm xưa kia, vào
dịp đầu xuân hay khánh hạ, tôi đã từng ra vào, tôi thấy trong phòng, những đồ tư
khí cũ thời Pháp, hoặc dã di chuyển một nơi khác, hoặc đã biến mất từ năm đảo
chánh 1945, hoặc vì ngày nay không vừa ý nên đã dời chỗ nào tôi chưa biết, tức
là không mất.
Tóm lại những lời đã nghe có sự mất mát nơi nầy, chỉ là lời đồn đãi thất thiệt.
Tôi chú ý nhứt là chiếc ghế bành của ông Tổng thống ngồi, bọc da màu vàng, xám
nâu (beige) xem bề thế và rất mềm, rất êm ái. Đây là chỗ ông ngồi làm việc
thường ngày, vừa khỏe lưng trong lúc tỷ như duyệt khán công văn, và cũng tiện
lợi vì có thể nằm nghỉ lưng đỡ mỏi trong chốc lát. Kế bên chiếc ghế bành nầy,
nơi mé tay mặt, có đặt một hộp lớn làm bằng gỗ trắng đánh vẹt-ni, trong chứa
đựng cả xấp hồ sơ và công văn đang nghiên cứu hay còn xem xét. Hộp gỗ nầy có gắn
một hàng nút điện sành trắng và nhỏ bằng cỡ đầu ngón tay út khi Tổng thống bấm
vào là để gọi từng bộ hạ cộng tác, khi gọi ông chánh văn phòng hay chánh võ
phòng, hoặc bí thơ hay tuỳ giá quan,.., khỏi nhọc công sai người đi mời. Trước
mặt ghế ông ngồi và đôi bên tả hữu của chiếc ghế nầy, như đã có nói rồi, là hai
chiếc ghế dạ đỏ đã phai màu, góc cạnh đã sù sì vì đã quá thâm niên, quá tuổi lưu
dụng.
Một chiếc tôi đang ngồi, và vì không dám ngồi ngay giữa ghế nên không rõ bộ
lò-xo có còn êm ái không, duy chiếc để trước mặt tôi, vốn là một cặp với chiếc
kia, không nữa cũng đồng niên đồng tuế năm mua năm sẩm, hai chiếc ghế dành cho
khách ngồi nầy, tại sao quá khác biệt với chiếc của Tổng thống ngồi, chiếc ghế
của chủ thì vừa đẹp vừa êm, thêm vừa mới, còn hai chiếc nọ lại cũ kỹ và hư tệ
đến thế. Xem ghế biết tánh chủ nhà, cực chẳng đã ông mới dám sài chớ bình sanh
để làm theo ý ông, thì ông là người hà tiện nhứt trên đời, vì tiếng còn để lại,
gia đình ông thuở ông Khả còn sanh tiền, thì đất Huế còn nhắc danh nhà nầy lấy
tôn chỉ là “tề gia chi bổn thượng sách”. Có một chiếc ghế khác, kiểu xích đu
loại Rocking chair hiệu Thonet thứ thiệt, thì chắc là không mấy năng đùng, nên
tôi thấy trên mặt ghế chồng chất một đống hồ sơ cao nghệu, thấy mà ngán. Xem kỹ
lại đâu đâu cũng thấy toàn là hồ sơ cái bìa xanh cái lại bìa đỏ, trước mặt Tổng
thống, hai bên Tổng thống, bên vách tả cũng có một hàng dài dài trừ bên vách
hữu, thấy một dãy ba chiếc tủ gỗ to tướng, choán gần trọn mặt vách trên sáu
thước chiều dài, những tủ nầy do trào Pháp còn sót lại, mặt gỗ liền màu đỏ kiến
gián làm bằng gỗ danh mộc đắt tiền. Trong tủ không biết có chứa đựng giấy má hồ
sơ tối mật chi không, nhưng độ chừng ông Tổng thống là một thầy tu lỡ mùa, thuở
nay quen sống độc thân, cho nên y phục tế nhuyễn vật cần thiết của người, người
đều dồn hết vào đây, là một văn phòng mà cũng một tư phòng bất khả xâm phạm, và
bấy lâu vì thiếu bàn tay bà nội tướng, nên tha hồ người để bừa bãi, thậm chí tôi
liếc thấy chiếc gậy tuỳ thân ông thường cầm trên tay mỗi khi đi kinh lý “làng
chiến lược” và chiếc nón nỉ lịch sử ông thường đội đầu, nay cũng ngự chễm chệ,
nón thì đặt trên một hồ sơ một nơi nầy, gậy thì dựng nơi kẹt một góc nọ, mãi xa
mút sau chót ba chiếc tủ gỗ kia. Trong khi Tổng thống mãi bận trả lời trong điện
thoại, tôi chợt đưa mắt lên đầu chiếc tủ giữa bỗng thấy một khuôn hình lớn vẽ
dầu màu, hoạ chân dung cụ cố Ngô Đình Khả, mình mặc sắc phục võ tướng, hai tay
giụm lại đứng chống gươm xem rất oai nghi, nhưng cớ sao trong mắt tôi lúc ấy lại
thấy dường như bơ vơ trơ trọi trên đầu loại tủ đựng áo quen mặt bằng gỗ liền
nầy. Trong bụng tôi suy nghĩ bâng quơ: Hỡi trời? Đã tột bực đỉnh chung, lên ngồi
trên cả thiên hạ, thế mà tìm không được một chỗ thờ cha cho xứng đáng. Hãy chừa
cho bọn thơ ký nghèo như chúng tôi thờ cách ấy! Nếu ông là người công giáo thuần
tuý không nhìn nhận sự thờ phượng ông bà, không muốn bắt chước bọn bên lương lập
bàn thờ thờ cúng tổ tiên, thì cứ việc “làm theo Tây u”, tốn một cây đính đóng
lên vách như treo hình đức Chúa hay hình ký kiểu La Joconde chẳng hạn, bằng
không nữa thì thà đừng thờ và chỉ “tâm thờ”, thờ trong lòng, trong tư tâm cũng
được đi, chứ thờ làm chi trên đầu tủ bọn tiểu công chức nhà như ổ chuột, trong
nhà chỉ có cái tủ áo là cao, cũng không đành thờ cha mẹ ông bà như thế. Đang trí
còn nghĩ ngợi viển vông, thoạt nghe Tổng thống đặt máy nói vào móc tôi vừa day
lại thì nghe ông nói chậm rãi nửa thân nửa chí tình: “Cách nay mấy mươi năm, tôi
cũng từng làm một nghề tương tợ như nghề ông (tiếng ông gọi tôi lần thứ nhứt),
nhưng vẫn không phải nơi chốn nầy đâu!”.
-
Dạ thưa Tổng thống, - tôi thầm phục và thầm khen ông khéo lựa mấy lời quá êm cởi
mở - Dạ thưa Tổng thống, tôi đã từng đọc bài nghiên cứu của Tổng thống viết về
chiếc nghiên mực “Tức mặc hầu” đăng năm xưa trong tập san Đô thành hiếu cổ.
- Ờ! Phải đấy. Bài ấy tôi viết đã lâu lắm rồi. Có đọc hỉ!
Nói đến đó rồi ông chăm chỉ lật lật xấp bản thảo tôi đã viết, vừa đọc vừa hỏi
trống lỗng:
- Chữ ai viết mấy trang nầy vậy?
- Dạ, chữ cụ Sển viết! - Ông Giá khoanh tay đứng gần tôi trả lời.
- Già mà chữ viết còn hay hỉ! - Tổng thống ngó tôi mà khen.
Tôi cúi đầu nói nhỏ câu “Tôi không dám!” nhưng trong bụng, tật cũ không chừa,
vẫn cãi:
- Trong Nam, chúng tôi nói chữ viết “cứng”? Viết hay là khác!
Rồi lại nghe Tổng thống hỏi tiếp:
- Hiệu “Ngoạn Ngọc” dùng được chớ hỉ?
- Dạ thưa, Ngoạn Ngọc là quý, là cổ lắm vậy.
- Ờ, ờ! Xưa tại nhà, có khá nhiều đồ hiệu Ngoạn Ngọc.
- Dạ thưa, - Tôi bất trớn nói tiếp - Đồ cổ đề hiệu Ngoạn Ngọc là nên dùng lắm.
Người châu Âu, châu Mỹ, rất chuộng, và gọi theo Pháp là “Bibelot de jade”. Dạ,
nhưng nó chưa quý bằng đồ cổ kiểu ký hiệu chữ “Nhựt”.
- Vì sao vậy? Tổng thống hỏi.
- Dạ, theo tôi hiểu, thưa Tổng thống. Hiệu “nhựt” là đồ sứ “Quân dụng”, chế tạo
riêng cho quân vương dùng, khác với Ngoạn Ngọc là hiệu thường, ký trên đồ sành
sứ từ nhà quan quyền đến nhà lê thứ đều dùng được cả, tức cũng như đồ thông
thường, “quan đụng”, “dân dụng”.
Nói đến đây, tôi nhìn trộm, thấy mặt Tổng thống vui lên, cười cười rồi với tay
bấm một nút chi nhỏ nhỏ gắn nơi hộp gỗ đã tả, tức thì hiện ra một tuỳ giá quan
mặc một bộ quân phục bén ngót, vừa mở cửa vào, vừa chào và đứng thẳng mình.
- Cho ở dưới lầu hay tôi xuống xem các vật vừa sắm đó.
Ông Tổng thống đứng dậy, tôi cũng lật đật đứng theo. Tôi bước trái qua một bên,
nhường chỗ cho ông bước ra khỏi ghế, rồi chờ ông bước được vài bước, tôi khi ấy
mới nối gót theo sau. Bỗng cửa phòng mở toác, tôi giựt mình khi thấy ngoài cửa
có hai ông cao cấp quen mặt, tay ôm hồ sơ chực sẵn từ lúc nào, đầu cúi ngó mũi
giày, áo gài nút kín, mỗi ông đứng một bên cửa, không khác ông Thiện và ông Ác
vẽ trên cửa chùa, nói làm vậy chớ vẫn mong hai ông đều hiền và không có ông nào
xứng danh là ông Ác. Một ông, bấy lâu tôi nghe tiếng đồn là thanh liêm “tuy gần
bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”, nhưng nay thấy tận mắt vì ông có xương sống gắn
bản lề khá dẻo cho nên người ta mới còn dùng đến nay, trong bụng thầm tiếc một
người có Đức như ông, nấm nuối làm chi chốn nầy, ham quyền chức e có ngày vướng
bùn mất chữ thanh cao, hay là cũng vì ông đã trót lựa chữ lót là “Tòng”.
Ông kia tôi gặp một lần trong một buổi đi nghe diễn thuyết nay cũng không nhớ
tên, khi tôi đi ngang chỗ ông đứng, tôi ễnh ngực, nện mạnh gót giày, ý chừng
muốn cho ông thấy tên ăn lương công nhựt nầy, cũng có lúc đi gần chủ của ông để
được ông cúi chào, sướng quá. Buổi ấy, Tổng thống dẫn đầu đi trước, thứ đến là
tôi kế nữa là một cận vệ quan, và sau rốt là ông Giá, chức coi về từ khí thập
vật trong phủ, Pháp gọi “garde-meuble du palais”, tạm dịch nội phu quan chớ
không lý dùng chữ “nội dịch” nghe tệ quá.
Xuống đến phòng tạm chứa đồ sứ, một phòng rộng lớn thênh thênh thuộc mé hữu của
toà lâu đài nầy, tôi thấy các cổ vát, cổ ngoạn đã được dọn bày sẵn làm ba hàng
dài: chóe sành, bầu hồ lô tô kiểu, bình phong nạm ngọc, vân vân, đủ thứ, nhưng
thứ thật tốt, đẹp và cổ thì ít, thứ xoàng xoàng không xưa không nay thì nhiều,
theo ý riêng tôi, sở dĩ họ đem đến đây, cốt bán cho được nhiều tiền, kiếm đồng
lãi và không sợ sự bình luận mai sau. Gẫm lại nguy hiểm thay cho cái nghề
“chuyên viên khảo về cổ vật” như mình, có tiếng mà không có miếng, nay được đòi
đến đây để giảo nghiệm, nhưng xét ra từ ông Tổng thống cho đến mình, còn cách xa
biết bao nhiêu độ, mấy lời mình trực ngôn còn bị nhiều ý kiến tay ngang của các
“cục cưng giỏi sàm tấu” xuyên lạc, không khéo “chơi dao có ngày đứt tay”, mình
nói trắng, họ thay đen, mình nói “nay” họ đổi ra xưa”, - mình sẽ bị “bán đứng”
bị lợi dụng, bị mang tai tiếng, từ đó đi đến sự “ủ-tờ” cũng chưa biết chừng. Ôi!
Cái nghề làm quản thủ Viện bảo tàng ăn lương công nhựt!
Trong buổi ấy, tôi theo sát bên lưng Tổng thống. Ông xem xét từng món, ông hỏi
tôi về món nào, tôi cố đem hết sức bình sanh tìm lời giải thích cặn kẽ về gốc
tích, điển cố nào tôi biết được. Đi xem được giây lát, định chừng ông hài lòng
về mấy lời tôi cắt nghĩa, nên ông “nói chuyện”quên thôi, và lần lần nói giọng
rất thân mật, và cố nhiên bầu không khí trong phòng trở nên nhẹ nhàng dễ chịu.
Ông Giá lấy mắt nháy lén tôi, hình như muốn nói: “Được lắm! Tiếp như vậy hoài
đi”! Mỗi lần tôi cố ý nói giặm nói chêm một đôi chỗ cho thêm vui câu chuyện, tôi
lén nhìn thấy hai môi Tổng thống như muốn cười nhưng còn giữ bộ nghiêm. Và khỏi
nói khi thấy được cởi mở, mấy ông tuỳ giá lúc ấy cũng tiếp sức tôi vài câu đúng
lúc cho không khí được “dễ thở” thêm. Tỷ dụ khi đứng trước một cái tô có đề thi
nôm, tôi quên lưng hiện mình đang giỡn với lửa và tôi bỗng đọc đủ giong phù
trầm.
-
Bộ biết chữ Nho khá lắm hả? - Tổng thống cắt ngang và hỏi tôi như vậy.
- Dạ thưa Tổng thống, đó là tôi thuộc lòng vì quá quen mặt với tô nầy, chớ về
chữ Nho, tôi vẫn dốt, vì cha tôi không cho tôi học chữ ấy từ lúc nhỏ.
Qua khỏi truông vấn nạn nầy, tôi lại tiếp tục nối gót theo ông Tổng thống. Bỗng
đi đến trước một bộ chén trà cổ. Ông với cầm lên một cái chén “quân” và nói:
“Đây chữ gì? Tôi không đọc được?”. Nghe vậy tôi tiếp cầm cái chén, vụt đọc lớn:
“Tuyên Hoá”.
Ông Tổng thống chận tôi lại, cười và nói: “Đó! đọc được chữ Nho đó!”
Hồn bất phụ thể, tôi vội nói chữa lời: “Dạ! Cái chén nầy, thưa Tổng thống, nó là
chén giả hiệu. Vì chữ viết nhòe nên Tổng thống không đọc được. Tôi quá quen và
đã từng thấy nhiều bộ cổ hơn và chánh hiệu, nên mấy chữ nầy dễ nhìn, dễ đọc ra.
Vả lại vua đời Minh có hiệu Tuyên Đức và hiệu Thành Hoá mà thôi. Nay chén nầy
xưng “Tuyên Hoá” không có trong niên hiệu nhà Minh, cho nên tôi gọi là giả hiệu.
Họ lấy chữ Tuyên trong Tuyên Đức và chữ Hoá trong Thành Hoá, hai chữ đều dễ đọc.
Tổng thống gật đầu bước qua dãy khác, và tôi thoát nạn. Hú hồn!
Đi
được giáp phòng một vòng tròn, đại khái đi đến đâu tôi đều trả lời suôn sẻ, độ
chừng nãy giờ Tổng thống bằng lòng lắm. Kế đó bắt qua xem mấy bức bình phong sơn
mài có nạm ngọc quý, treo trên vách. Đến đây tôi có dịp dò xét ý ông. Quả ông là
người có bản lĩnh, đừng khinh ông mà lầm. Ông là người tự làm lấy mình, tự xem
xét và tự quyết định lấy mình, vốn ít nghe lời ai mà cũng không muốn nghe lời ai
khuyến biểu. Sở dĩ sau nầy việc đa đoan và bọn gian thần sanh ra quá nhiều và
thời đã hết nên phải hư việc. Như hôm nay, ông đang đứng trước một bức bình
phong có nạm ngọc nầy. Đó là một bộ tranh sáu bức, dài và hẹp, cỡ 2m x 0,50, cả
thảy sáu tấm ráp lại bằng nhiều bản lề, nền tranh là gỗ thông sơn mài màu đen,
trên nền sơn, cẩn đủ thứ ngọc quý giá, từ ngọc vân thạch, đến nhiều thứ quý hơn
nữa...
-
Tranh ngọc nầy, - Tổng thống nói - tại sao lặp đi lặp lại có một kiểu, trông
nhàm quá.
- Thưa, tuy vậy mà nay không làm được nữa - Ông Hải nói tiếp - Nếu nhà Thành Lễ
làm như vầy được, không biết sẽ tính đến giá nào!
Câu nói là câu có ý tán thành, ý định muốn giúp cho tấm bình phong được Tổng
thống chấm mua, không dè đã làm Tổng thống nổi cơn thịnh nộ bất ngờ, như trời
không kéo mây bỗng vụt mưa ồ. Ông day lại, nói rất lẹ:
- Mà ai mua làm chi của nhà Thành Lễ. So sánh làm chi vật xưa với vật nầy. Bức
tranh nầy, vừa nói ông vừa lấy gậy chỉ, giá sáu chục nghìn (60.000$) kia mà!
- Dạ, hai trăm sáu chục nghìn chứ (260.000$). - Ông bí thư Hải cải chính.
- Ôi cha! Tôi không mua với giá đất đó đâu!
Ông Tổng thống đáp và bước te te đi một nước, làm cho chúng tôi phải bước lẹ mới
theo kịp. Rồi liền đó, ông hạ giọng, day lại tôi và chậm rãi nói:
- Với những giá biên ra đây, tôi định sẽ giảm bớt đồng đều hoặc 25 hoặc 30 phần
trăm. Nghĩ sao? Nếu họ không bằng lòng bán thì không mua.
- Dạ thưa Tổng thống, nếu cho phép tôi đưa ý kiến. Tôi chuyên xem kỹ về vấn đề
tốt hay xấu, giả hay thật, cổ hay không cổ còn về giá cả, tưởng tôi không quyền
định đoạt.
- Thôi được! ông Tổng thống nói - Rồi ông bắt qua chuyện khác. Kế ông lại hỏi:
- Đây họ đề “ambre”. Mà “ambre” là gì?
- Dạ thưa Tổng thống, “ambre” là hổ phách.
- Ủa! Lạ nầy! Tổng thống nói. Ambre, không phải là chất nọ tiết ra bởi loài cá ở
biển kia sao?
- Thưa Tổng thống, tôi đáp. Nếu “ambre gris” thì đó là chất vôi hay là tinh của
loại cá “cachalot”, thường thấy trôi cả giề lên mặt biển và người đánh cá vớt
lên đem phơi khô, cân bán với giá rất mắc, gọi là “long diên hương”. Dạ, còn
“ambre” nầy là ngọc hổ phách, vốn là mủ, nhựa cây thông bên Tàu, được trên ngàn
tuổi, biến thành. Dạ thưa, mủ thông, ta gọi “tòng hương”, Pháp gọi “résine de
conịfères”. Tòng hương, ta dùng thoa dây kéo đàn, cũng giống như colophane của
Pháp. Và khi nào “tòng hương” để lâu được trăm năm, sẽ biến thành “phục linh”,
một vị thuốc Bắc và nếu “tòng hương” ở dưới đất trên ngàn năm, sẽ biến thành hổ
phách, như vầy đây. Đó là tôi đọc theo sách Tàu dịch ra, chớ đúng không thì tôi
không rõ.
Buổi đặc biệt tôi được tiếp xúc với ông Ngô Đình Diệm, đến đây là chấm dứt. Và
đây là lần thứ nhì ông cho tôi yết kiến. Tên tôi viết theo Tàu có lẽ ông không
ưa, vì bình sanh ông chỉ thích những người có tên tốt. Cũng vì tên không tốt,
nghe không thanh và quá “chệc”, nên ông hành tội bắt chầu hầu suốt mấy hôm liền
mới cho ra mắt. Ông đã hiểu lầm và có lẽ hôm nay ông biết rõ tôi hơn chăng?
Nhắc lại, sau khi tôi trả lời đầy đủ như học trò trả bài cho thầy, ông Tổng
thống gật đầu, quay lưng lại, và vừa đi vừa nói: “Thôi được? Mời ông lên lầu
dùng trà”.
- Đội ơn Tổng thống, tôi đáp. Nhưng tôi không dám làm mất thì giờ quý báu của
Tổng thống. Xin cho tôi về.
Ông gật đầu, bước thẳng lên thang. Tôi vừa mừng thoát nạn, bỗng ông chánh văn
phòng Võ Văn Hải đến gần khều tôi và nói nhỏ:
- Sao cụ không nhận lời ông Tổng thống mời, ngàn năm một thuở mà?
- Thưa ông, - Tôi đáp lẹ - Cũng biết vậy đó chút, nhưng ông nghĩ lại: phàm một
tên học trò đi thi, một khi ứng đáp được trôi chảy, kể chắc có hy vọng thi đậu,
là đủ mừng. Há tham làm tàng và đèo bòng, chạy theo chủ khảo, ông chất vấn thêm,
rủi bí là bao nhiêu công khó cũng trôi dòng nước, chằng là uổng công tu luyện
hay sao?
Ông Hải cười và nói:
- Cụ là người cao kiến.
Giờ tôi bước vào phủ Tổng thống, nhớ lại là mười lăm giờ chiều. Nay bước chân ra
khỏi phủ, là đồng hồ đã điểm mười bảy giờ bốn mươi phút. Thế là tôi được hầu ông
Tổng thống ngót hai giờ bốn mươi phút. Khi bước vô, lòng nặng như núi đè. Nay
bước ra, lòng nhẹ như được đầu thai kiếp mới.
Vài hôm sau, tôi nhận được một bức công văn, xin chép y, để làm kỷ niệm:
Việt Nam Cộng Hoà
Tổng thống phủ
Văn phòng
Số 62-TTP/ĐL
Sài Gòn, ngày 18 tháng 1 năm 1963
Đổng lý Văn Phòng Phủ Tổng thống
Kính gửi ông Bộ trướng Quốc gia Giáo Dục Sài Gòn.
Thưa ông Bộ trướng,
Văn phòng tôi trân trọng kính chuyển quý Bộ, chỉ thị sau đây của Tổng thống. “Có
nhiều đồ cổ cần mua cho Viện bảo tàng, xin ngân khoản mà mua thì có khó khăn,
cho nên cho phép ông Quán thủ Viện bảo tàng là người rành rỏi và biên khá về đồ
cổ, khi nào có gặp đồ cổ thì ông ấy có thể trình gấp, vì theo thú tục giấy tờ
mất ngày giờ, trễ ké khác đã mua rồi.
Nếu thiếu ngân sách, thì trình lên Thượng cấp để xin ngân khoản đặc biệt.
Nay kính, Ký tên
Quách Tòng Đức
Dưới bức công văn chánh, do phủ Tổng thống gởi, còn mấy hàng phụ như sau:
Bộ Quốc Gia Giáo Dục
Số 2044 - GD/KTNS/2
Sao y kính gửi.
Ông Giám đốc Viện Khảo cổ, Sài Gòn.
Quản thủ Viện bảo tàng, Sài Gòn.
“để thi hành”.
Sài Gòn ngày 9 tháng 2 năm 1963.
K. T. Tông thơ ký, Phó Tổng Thơ ký
Ký tên: Đỗ Bá Khê
Do
công văn chép lại như trên thì từ đây, tôi đã được lọt mắt xanh. Người khác, nếu
được như vầy, ắt mừng lắm vì tương lai hy vọng tràn trề.
Nhưng đối với tôi, vốn sẵn tánh bi quan từ thuở nào, tôi chỉ thấy kể từ đây
thiếu gì nguy hiểm khó phòng ngừa được: mỗi lần trên Phủ muốn mua đồ cổ, sẵn tôi
đang được tin dùng, thiếu chi người, từ bọn buôn đồ cổ, bọn đứng trung gian đến
kẻ hám lợi chưa biết được, họ có thể sẽ bán đứng tôi có ngày. Tỷ dụ tôi không
thấy món đồ, mà họ hô “tôi xem rồi”, hoặc tôi đã bảo biết là đồ quý.
Nhưng cũng may, cái sợ của tôi chỉ là trong tưởng tượng.
Cách đó không bao lâu, Tổng thống Diệm đột ngột lìa đời, còn tôi cũng bị cho ra
rìa, lìa khỏi Viện bảo tàng, trở về kiếp sống “hưu trí non”, và mười mấy năm làm
thêm nơi viện nầy, không được kể vào tuổi thâm niên hưu trí, vì trong khế ước,
tôi là nhân viên công nhựt.
Nay xin có mấy hàng hồi ký, không phải tiếc ông Diệm, sự thật chỉ ngậm ngùi cho
thân. Từng đọc bài thi Lão ky qui y của ông Tôn Thọ Tường, càng thấm thía thấy
thân sao giống hệt. Đối với riêng tôi, ông Diệm không có làm điều gì có hại cho
cá nhân tôi.
Một phút gặp gỡ cũng là tình, dẫu không phải một bức tình chung, nhưng cũng đủ
hư thân trọn đời. Tôi viết mấy trang nầy, chẳng qua để nhắc việc cũ, dẫu có
người trách tôi còn tưởng niệm ông, thân nầy có thể ví với gái hư, nay đã già,
cho nên thà ở goá ngồi ngoài lần chuỗi cho qua ngày tháng.
Gia Định 15-7-1968 chép lại 20-4-1975.